1/20/2017

Đi Quang Gánh Về Thúng Không

Pham Tran
1/17/2017


Chuyến đi Trung Hoa “không lý do chính đáng” trong 3 ngày (12-15/01/2017) của Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã gây thắc mắc nhiều hơn trả lời.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh nói với báo, đài nhà nước hôm 5/1/2017 rằng: “Mục đích chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhằm tăng cường quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Trung Quốc, khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam muốn tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước, trong đó có Trung Quốc-một đối tác chiến lược toàn diện quan trọng của Việt Nam.”

Lời nói của ông Minh xưa như trái đất vì nó đã được phía Việt Nam lập đi lập lại không biết chán mỗi khi có chuyến đi nước ngoài của Lãnh đạo. Lần này ông Bộ trưởng Ngọai giao còn tô vẽ thêm: “Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngay thời điểm đầu năm mới khẳng định rõ mong muốn của Việt Nam đưa quan hệ với Trung Quốc đi vào chiều sâu, hiệu quả, tạo môi trường hòa bình, ổn định, mở ra một năm sẽ có nhiều chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa lãnh đạo hai bên.”

Nhưng ước mơ chuyến thăm của ông Trọng sẽ “đi vào chiều sâu” và có “hiệu quả” để “tạo môi trường hòa bình, ổn định” giữa hai nước Việt-Trung đã chứng minh là thứ lạc quan bốc đồng.

Bởi vì trong 15 Thỏa hiệp hợp tác được hai bên ký tại Bắc Kinh chiều 12/01/2017, có những văn kiện không trong sáng và có hại cho Việt Nam.

ĐÀO TẠO AI-AI ĐÀO TẠO?

Tỷ du như hai bên đã: “Thoả thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2017-2020.”

Nhưng ai học ai, học cái gì và “cao” đến cấp nào? Và tại sao lại kéo dài cho đến hết thời gian trách nhiệm khoá đảng XII (2016-2020) của ông Nguyễn Phú Trọng, nếu ông đi hết nhiệm kỳ? Sau đó thì hai bên không cần phải đào tạo thêm nữa, hay đến đó thì kế họach Hán hoá hay Việt hóa đã hòan tất? Rất mơ hồ.

Nên nhớ mỗi quốc gia là một thực thể độc lập, có chủ quyền và sự tòan vẹn lãnh thổ của riêng mình. Chính sách và đường lối lãnh đạo cầm quyền của nước này không phải là bản sao của nước kia, dù có là đồng chí.

Việc trao đổi văn hóa và kinh nghiệm việc làm cho nhau giữa các dân tộc là bình thường, nhưng khi hai đảng duy nhất cầm quyền Việt-Trung đồng ý “đào tạo cán bộ cấp cao” cho nhau thì ai cũng biết Bắc Kinh khó mà chấp nhận làm vai “học trò” của Việt Nam.

Bởi vì từ lâu Bắc Kinh đã chủ động giúp Việt Nam huấn luyện cán bộ các ngành, đặc biệt cán bộ làm công tác tư tưởng, tuyên truyền (Tuyên giáo), dân vận, chống nổi dậy, chống tội phạm, diệt ma túy và chống tham nhũng nên bây giờ leo qua công tác cán bộ cao cấp đảng là việc không lạ.

Có điều là khi hai đảng cầm quyền Việt-Trung đồng lòng dậy dỗ cán bộ lãnh đạo cho nhau thì hai nhà nước đã xóa đi tính “độc lập” để “hòa hợp” vào chung một chính sách. Nước nào đưa ra chủ trương thi hành cũng thế thôi.

Nhưng nếu sáng kiến tự đánh mất bản chất độc lập và chủ quyền Quốc gia là của Việt Nam thì đảng cầm quyền Cộng sản mắc nợ một lời giải thích trước nhân dân. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng đã nhắm mắt đầu hàng trước áp lực của Tập Cận Bình để được an thân thì lịch sử sẽ khó khoan dung cho ông.

Do đó không lạ khi thấy Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng-Tập Cận Bình lần này đã không quên nhắc lại lập trường cố hữu của Trung Hoa rằng: “Hai bên khẳng định Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên trì phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan) và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Phương châm được gọi là 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt là đòi hỏi của Trung Quốc đặt ra cho phía Việt Nam phải tuân thủ, bắt đầu từ khi hai nước nối lại bang giao năm 1991, tiếp theo sau Hội nghị bí mật Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) năm 1990.

Hội nghị này do phiá Việt Nam yêu cầu nhằm bình thường quan hệ ngọai giao với Trung Hoa để tồn tại khi Thế giới Cộng sản do Nga lãnh đạo, vào thời gian này, sắp cáo chung. Phái đòan Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (khóa VI) cầm đầu còn có Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng. Phía Trung Hoa có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

Những thỏa thuận tại Hội nghị này, bị coi là rất bất lợi cho Việt Nam, cho đến nay (2017) vẫn còn giữ kín. Duy nhất có một điều được nguyên Đại sứ Hà Nội tại Bắc Kinh, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh tiết lộ rằng tại Thành Đô, phiá Việt Nam đã phải chấp nhận đòi hỏi của Giang Trạch Dân lọai bỏ Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) vì ông Thạch có lập trường chống Tầu.

Nhu nhược thay, phía Việt Nam đã nhượng bộ ngay từ khoá đảng VII thời Đỗ Mười nên có tin nói ông Nguyễn Cơ Thạch đã phải thốt ra câu: “Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu.”

Câu nói này có hay không đến nay chưa ai dám xác nhận. Con trai ông Thạch, Phạm Bình Minh hiện nay là Bộ trưởng Ngọai giao. Ông Minh từng bị Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, một thân tín của Trung Hoa dìm không dám cất nhắc trong 10 năm, vì sợ làm Bắc Kinh phật lòng.

Ngoài ra tại Thành Đô, Việt Nam còn phải đồng ý không được nhắc đến cuộc chiến Hòang Sa năm 1974 khi quân Trung Hoa chiếm quần đảo này của Việt Nam từ tay Quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Càng về sau, trong mọi cuộc nói chuyện về tranh chấp chủ quyền biển đảo, phía Trung Quốc đều từ chối nghe nhắc đến tên Hòang Sa.

Tướng Vĩnh không cho biết liệu Hội nghị Thành Đô có ra điều kiện nào đối với 2 cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt (1979-1990) hay không, nhưng phiá đảng và nhà nước Việt Nam đã nghiêm cấm các buổi tổ chức tưởng niệm trên 40 ngàn người Việt Nam đã hy sinh trong 2 cuộc chiến thảm khốc này. Việt Nam cũng không dám tổ chức tường niệm 64 chiến sỹ đã hy sinh chống quân Tầu ở Trường Sa năm 1988, và từ chối tuyên dương 74 chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình vì tổ quốc chống quân Tầu xâm lược Hòang Sa tháng 1/1974.

Phiá Việt Nam luôn luôn coi những việc dính đến “tình hữu nghị Việt-Trung” là “nhạy cảm” nên không dám đụng đến.

Nhưng việc tuân thủ đơn phương của Việt Nam về phương châm 16 vàng và 4 tốt đã liên tiếp được thi hành qua các đời Tổng Bí thư Đỗ Mười (khóa VII), Lê Khả Phiêu (khoá VIII), Nông Đức Mạnh (khoá IX và X) và Nguyễn Phú Trọng (khoá XI và XII).

Từ đó đến nay, Trung Quốc đã không ngừng rêu rao và được phía Việt Nam hớn hở cổ võ theo nói rằng: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung.”

TẬP-TRỌNG NÓI GÌ?

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phản ảnh nội dung này khi tiếp ông Trọng tại Bắc Kinh hôm 12/01/2017. Họ Tập nói: “Chính phủ và nhân dân Trung Quốc coi trọng cao độ quan hệ với Việt Nam; mong muốn và sẵn sàng nỗ lực cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục không ngừng tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung phát triển lành mạnh, ổn định theo phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt".”

Về phần mình, ông Trọng đã hạ mình trước Tập Cận Bình để: “Khẳng định Việt Nam luôn hết sức coi trọng quan hệ với Trung Quốc và chân thành mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị bền vững và hợp tác toàn diện cùng có lợi với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình và thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới”. (theo VOV, Voice of Viet Nam/Đài Tiếng Nói Việt Nam 12/01/2017)

Khơi rộng ra, vẫn theo VOV, hai bên đã đồng ý: “Đẩy mạnh giao lưu, hợp tác kênh Đảng, giữa các cơ quan của hai Đảng, giữa Quốc hội Việt Nam và Nhân đại toàn quốc Trung Quốc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính hiệp Trung Quốc; làm sâu sắc thêm hợp tác trên các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh, tăng cường hợp tác giữa các lực lượng biên phòng và thực thi pháp luật hai nước.”

Những quan hệ song phương này cũng không có gì mới mà chỉ lập lại những cam kết đã có trong các chuyến thăm Trung Hoa năm 2011 của ông Nguyễn Phú Trọng, sau khi ông được bầu làm Tổng Bí thư khoá đảng XI; của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2013; của ông Trọng đi Bắc Kinh năm 2015; của ông Tập Cận Bình đến Việt Nam từ 05 đến 06/2015.

HỢP TÁC QUỐC PHÒNG

Thứ đến cũng rất nghi ngờ là: “Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đến năm 2025.”

Tuyên bố chung giữa hai nước đưa ra khi ông Trọng kết thúc chuyến thăm không cho biết hai bên đã “nhìn chung về hợp tác quốc phòng” như thế nào. Liệu “hợp tác” giữa hai nước cựu thù và còn đang gờm nhau trong tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên ở Biển Đông có bảo đảm sẽ không có chiến tranh thêm lần nữa?

Hay là phiá Việt Nam đã cam kết không dám đụng tới lỗ chân lông lính Tầu đang chiếm đóng trên 7 bãi Đá, nay được tân tạo thành đảo cho quân đóng, tại Subi, Gaven, Tư Nghĩa, Vành Khăn, Chữ Thập, Gạc Ma và Châu Viên?

Chỉ biết rằng Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Ngô Xuân Lịch và Thượng tướng Bộ trưởng Quốc phòng Trung Hoa, Thường Vạn Toàn đã ký bản Tuyến bố ngày 13/01/2017, dưới sự chứng kiến của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản hai bên.

Theo các báo Việt Nam, ông Lịch đã “đánh giá cao việc ký kết văn bản này do có ý nghĩa quan trọng trong thời điểm hiện nay, thể hiện bước phát triển chủ động, tích cực trong quan hệ quốc phòng, góp phần củng cố và phát triển đại cục quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa hai nước, hai quân đội, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc, chia rẽ quan hệ hai nước, hai quân đội.”

Tướng Lịch nói thế nhưng không ai biết thực chất của nội dung hợp tác quốc phòng Việt-Trung lần này như thế nào. Chỉ thấy rõ trong câu nói là thỏa hiệp sẽ “góp phần củng cố và phát triển đại cục quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển giữa hai nước, hai quân đội.”

Làm sao mà Tướng Lịch có thể tin chắc như “bắp rang” thế với một đội quân đã từng xâm lăng Việt Nam và vẫn còn chiếm đóng một phần lãnh thổ rộng lớn của Việt Nam ở dọc biên giới, quan trọng nhất là núi Lão Sơn (điểm cao 1509) ở Vị Xuyên (Hà Tuyên), sau 2 cuộc chiến tranh biên giới 1979-1990?

Chỉ có điều rõ nhất trong quan hệ giữa hai quân đội là khi Đại tướng Phùng Quang Thanh còn giữ Bộ Quốc phòng thì ông đã đồng ý với Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Thường Vạn Tòan sẽ tuyệt đối trung thành và bảo vệ đảng cầm quyền tại mỗi nước.

Thỏa hiệp lạ thường này của phía Việt Nam đã bị lên án là ngay những việc của quân đội Việt Nam cũng bị ràng buộc vào quyết định của Trung Hoa.

Vì vậy không ai lạ khi thây ông Lịch còn hội kiến với Thượng tướng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long trong thời gian tháp tùng ông Nguyễn Phú Trọng.

Theo tường thuật của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) từ Bắc Kinh ngày 13/01/2017 thì trong cuộc họp này, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch: “Đã đi sâu trao đổi với đồng chí Phạm Trường Long những biện pháp hợp tác nhằm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xứng đáng là lực lượng trung thành và tin cậy của Đảng, nhân dân và Tổ quốc, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản đối với quân đội, “phi chính trị hóa” quân đội.”

Như thế rõ ràng tướng Lịch đã phải sang tận Bắc Kinh để được nghe chỉ bảo của Trung Hoa về cách “xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, xứng đáng là lực lượng trung thành và tin cậy của Đảng, nhân dân và Tổ quốc.”

Nếu “tầm nhìn quốc phòng chung” mới của Việt-Trung lấy đó làm mục tiêu hàng đầu thì “anh Bộ đội cụ Hồ” có còn là người lính Việt Nam nữa không hay là lính Trung Hoa?

Lập trường được gọi là “nhất quán của Việt Nam” hiện nay là theo đường lối “3 không” gồm à (1) không liên minh quân sự; (2) “không liên minh với nước nào để chống lại nước thứ ba” và cũng (3) “không cho nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam…”

Nhưng cũng thật cắc cớ không thấy phiá Quốc phòng Việt Nam nói gì đến hành động bành trướng lãnh thổ và phòng thủ mỗi ngày mỗi rộng và nguy hiểm của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt quanh vùng Trường Sa mà Việt Nam vẫn coi là thuộc chủ quyền của mình.

ĐƯỢC GÌ KHÔNG?

Ngoài hai lĩnh vực quan trọng nêu trên, chuyến đi Tầu lần này của ông Nguyễn Phú Trọng còn gây cho nhiều người thắc mắc tại sao Việt Nam phải hợp tác với Trung Quốc để:

- Làm phim truyền hình chuyên đề giữa Đài truyền hình Việt Nam và Đài truyền hình trung ương Trung Quốc”.

- Thoả thuận hợp tác giữa Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc.

- Thoả thuận hợp tác giữa Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Sự thật Việt Nam và Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2021.

Nguyên nhân tạo nghi ngờ vì trước đây phiá tuyên truyền của Trung Hoa đã phổ biến qua Việt Nam nhiều phim truyền hình ca tụng “chiến thắng vẻ vang” của quân Tầu chống quân Việt Nam trong chiến tranh biên giới Việt-Trung. Bắc Kinh cũng dùng Đài Phát thanh Quốc tế Trung quốc (CRI, China Radio International) tuyên truyền chống Việt Nam về cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Nhiều loại sách báo xuyên tạc và làm ô nhục Việt Nam của Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc cũng được tự do lan tràn ở Việt Nam, trước mắt Ban Tuyên giáo và Bộ Thông tin và Truyển Thông.

Ngoài ra phiá Việt Nam và Trung Hoa còn ký “Bản ghi nhớ về triển khai hợp tác thả giống nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong Vịnh Bắc Bộ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Nông nghiệp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.”

Nhượng bộ của Việt Nam dành cho Trung Hoa ở vùng biển vịnh Bắc Bộ đã nhiều, kể từ khi có Hiệp định Phân định Vịnh Bắc bộ năm 2000.

Theo Bách khoa tòan thư mở thì Hiệp định này: “Nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ. Đây là kết quả sau nhiều đợt đàm phán kể từ năm 1973. Hiệp định này thay thế Công ước Pháp-Thanh 1887.”

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia hải dương cho rằng Việt Nam đã để cho Trung Quốc lấn chiếm tại 21 vị trí, trung bình từ 3 đến 27 hải lý (mỗi hải lý dái 1,825 mét).

Mặc dù cuộc đám phán phân định vào chi tiết vẫn chưa hòan tất, nhưng phiá Trung Hoa đã tự đào kiếm dầu và khí đốt trong khu vực mà cảnh sát biển và hải quân Việt Nam không dám ra tay.

Tuy vậy, Tuyên bố chung Trọng-Tập lần này lại ép Việt Nam phải đồng ý: “Hai bên nhất trí làm tốt các công việc tiếp theo sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định khu vực vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này; tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thoả thuận.”

Như vậy không những phiá Việt Nam phài hợp tác, hay bằng lòng để cho Trung Hoa đóng bè hay khoanh vùng để nuôi trồng hải sản “bên trong” vịnh Bắc Bộ mà còn phải đồng ý phân định vùng biển “bên ngoài vịnh Bắc Bộ” để “hợp tác cùng phát triển”.

Vậy vùng biển “bên ngòai vịnh Bắc Bộ” không phải là Biển Đông thì là biển gì?

Nên biết năm 2014, Trung Quốc đã tự ý đem gìàn khoan Hải Dương 981 đặt vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam để tìm kiếm dầu từ 2/5 đến 15/7/2014. Vị trí này chỉ cách đảo Tri Tôn thuộc Hòang Sa 17 hải lý (hay khỏang 30 cây số) về phía Nam và cách đảo Lý Sơn, tỉnh Qủang Ngãi của Việt Nam có 120 hải lý về phiá Đông.

Cũng nên nhớ là lập trường “hợp tác cùng phát triển” là cụm từ của phiá Trung Quốc, bắt nguồn từ lập trường của Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình “gác tranh chấp để cùng khai thác”, đưa ra từ năm 1979.

Từ đó đến nay, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa đã lấy đó làm kim chỉ nam đế lấn chiếm tài nguyên và lãnh thổ của các nước trong khu vực, thiệt thòi nhất là phiá Việt Nam vì có đường biển dài 3,260 cây số, không kể các đảo.

Nhưng đảng Cộng sản Việt Nam, từ lâu đã phải ngậm đắng nuốt cay để sử dụng nhóm chữ “hợp tác cùng phát triển” với Trung Hoa mỗi khi phải nói chuyện biển đảo với Lãnh đạo Tầu.

KHÔNG MỚI NHƯNG NẶNG HƠN

Ngoài chuyện lình xình ở Vịnh Bắc Bộ, thêm lần nữa phiá Trung Hoa cũng lưu ý ông Nguyễn Phú Trọng phải giải quyết tranh chấp Biển Đông dựa trên 6 Điều ghi trong “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc” được chính ông Trọng ký tại Bắc Kinh với lãnh tụ Hồ Cẩm Đào năm 2011.

Có 3 Điều quan trọng như sau:

- (Điều 3). Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).

Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam - Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.

Điều này có nghĩa Trung Hoa bác yêu sách của một số nước trong khối 10 nước trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á muốn “quốc tế hoá” chuyện tranh chấp. Mục đích là ép Bắc Kinh đồng ý phải để cho Liên Hiệp Quốc, Liên hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ và Nga cùng tham gia qiải quyết vì Biển Đông là đường giao thống quốc tế có liên quan đến nhiều quốc gia.

-(Điều 4). Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.

(Điều 2). Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.)

(Điều 5). “Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.”

Ngoài những bất lợi cho Việt Nam kể trên, chuyến sang Tầu lần này của ông Nguyễn Phú Trọng còn có hững thoả thuận về hợp tác văn hoá, giáo dục, kinh tế, phát triển cơ sở, an ninh biên giới, chống tội phạm, hợp tác cảnh sát biển, cửa khẩu, v.v…

Tuy nhiên tất cả như thứ này và những hứa hẹn như “sẽ thúc đầy” hay “khuyến khích” của phiá Trung Hoa dành cho Việt Nam ghi trong các văn kiện phải cần thời gian mới thấy có đem lại kết qủa cho Việt Nam hay chỉ có lợi cho Trung Hoa.

Như vậy, phái đòan Nguyễn Phú Trọng khi đi đã quang gánh nặng nề với 4 Ủy viên Bộ Chính trị gồm Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng; Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an.

Cộng vào đó là Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công Thương.

Nhưng căn cứ vào những gì họ thu họach được thì khi về chỉ thấy họ thua thiệt và vác những chiếc thúng không.

Blue

BHL
1/20/2017

Tám năm trước, Obama được bầu để trở thành vị tổng thống 44 của Hoa Kỳ. Đêm đó, trong góc tối của một quán rượu bên đường, một nhạc sĩ da đen vẫn da diết với những nốt nhạc buồn.

Tám năm sau ngày đó, đêm nay, khi Obama mãn nhiệm kỳ, tiếng kèn người nhạc sĩ ngày ấy chắc còn buồn hơn ...true blue.




BLUE

Người da đen đang thổi saxophone
Kể chuyện những đoạn đường
Họ đã đi qua
Những ngày cúi lưng nhặt bông gòn trên cánh đồng nắng cháy
Những giọt mồ hôi đen rơi xuống đất
Mấy trăm năm
Đã làm nước tưới cho những cây bông mới

Cũng trong nắng gắt
Người chủ phe phẩy cái quạt trong bóng dâm
Cười vui cho một mùa hoa nữa
Những bông trắng nõn
Nằm trong bàn tay đen của từng đàn thợ
Hay bay theo những luồng gió lên cao
Thật đẹp

Đêm đang đi qua
Tiếng kèn vẫn réo rắt trong quán vắng
Những người khách mỏi mệt 
Bên những chai bia
Có người đứng dậy đi vào cầu tiêu
Đêm vẫn còn dài

Người da đen vẫn kể
Những đoạn đường họ đã đi qua
Lúc họ nhìn trong gương
Thấy mình là người giữ nhà trung thành cho những người da trắng
Và là những đời người không căn cước

Đêm qua
Trong một thành phố trung Mỹ
Có người da đen đã trở thành người uy quyền nhất trên thế giới
Những dòng nước mắt chảy mãi trên khuôn mặt
Nhiều người
Đã trôi đi những tức tưởi và mặc cảm

Đêm nay
Sao người da đen thổi kèn vẫn còn buồn
Điệu Blue
True Blue

2008

BHL

1/19/2017

Chủ nghĩa Tự do đang rút lui - Kết thúc một giấc mơ

Robin Niblett
Trần Ngọc Cư dịch
1/14/2017



“…Chiến thắng của Trump, quyết định rời EU của đa số cử tri Anh, và sự trỗi dậy của các đảng dân túy tại miền Bắc phồn thịnh và miền Nam nghèo khó của châu Âu là những triệu chứng rõ ràng cho một tâm lý bất mãn sâu sắc với tiến trình toàn cầu hóa…”


Trung Quốc và Nga lợi dụng giai đoạn phương Tây mất niềm tin hiện nay để hiện đại hoá quân đội và hành động quyết đoán nhằm chiếm đoạt các lợi ích khu vực và địa chính trị. Những cường quốc này đã xây dựng các định chế, gồm Liên minh Kinh tế Á Âu [the Eurasian Economic Union] và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải [the Shanghai Cooperation Organization] để giúp hai nước điều phối và hợp thức hóa một trật tự chính trị song hành thách đố lại các chuẩn mực phương Tây về việc điều hành quốc gia theo đường lối dân chủ và bác bỏ bất cứ một sự can thiệp bảo vệ nhân quyền nào từ bên ngoài.


Vận động Brexit ở Anh

Trật tự quốc tế tự do [the liberal international order] luôn luôn đặt cơ sở trên khái niệm tiến bộ. Kể từ 1945 đến gần đây, các nhà làm chính sách phương Tây đã tin tưởng rằng thị trường cởi mở, thể chế dân chủ, và các quyền cá nhân của con người sẽ dần dần lan rộng trên toàn cầu. Ngày nay, những hi vọng này có vẻ ngây thơ.

Tại châu Á, sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa thách đố địa vị bá quyền quân sự và kinh tế của Mỹ, khi Bắc Kinh tìm cách thu hút các đồng minh của Mỹ như Philippines và Thái Lan vào quĩ đạo của mình. Tại Trung Đông, Mỹ và các đồng minh châu Âu đã không đưa được khu vực này đến một tương lai tự do hơn, hòa bình hơn sau Mùa Xuân Á Rập và tỏ ra bất lực trong việc chặn đứng cuộc chiến tại Syria. Ảnh hưởng địa chính trị của Nga đã vươn tới những điểm cao chưa từng thấy kể từ sau Chiến tranh Lạnh, trong khi nước này đang toan tính đẩy lùi những bước tiến của phe tự do trên vòng đai của nó.

Nhưng những đe dọa nghiêm trọng hơn cho trật tự tự do phát xuất từ bên trong. Hơn 50 năm qua, Liên Âu có vẻ tiêu biểu cho lực lượng tiên phong của một chủ nghĩa tân tự do [a new liberalism] trong đó các quốc gia tập hợp chủ quyền thành một mối và hợp tác chặt chẽ với nhau hơn bao giờ cả. Nhưng ngày nay, trong tình thế chao đảo từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác, Liên Âu đã chấm dứt bành trướng. Sau khi Anh trưng cầu ý kiến rút khỏi khối này vào tháng Sáu vừa qua, rất có thể lần đầu tiên trong lịch sử, Liên Âu sẽ thu nhỏ lại.

Bên kia đại dương, cam kết của Mỹ đối với vai trò lãnh đạo toàn cầu, một vai trò cho đến nay đã duy trì trật tự thế giới tự do qua nhiều thăng trầm, có vẻ trở nên yếu kém hơn bất cứ thời điểm nào kể từ Thế chiến II. Tổng thống đắc cử Đảng Cộng hòa Donald Trump vận động trên một chương trình tranh cử rõ ràng “Nước Mỹ trên hết”, cam kết tái thương thuyết các hợp đồng thương mại của Mỹ, ca ngợi Tổng thống Nga Vladimir Putin, và nêu lên nghi vấn đối với các cam kết của Mỹ với NATO. Trong khi đó, chiến lược “tái quân bình lực lượng” hướng về châu Á của Tổng thống Barack Obama cứ ì ạch chưa cất cánh nổi. Bắc Kinh nhanh chóng đưa ra viễn kiến của mình về một khu vực Á-Âu có khả năng thu hút nhiều thành viên hơn nhằm loại bỏ Hoa Kỳ và trong đó Trung Quốc sẽ đóng vai trò lãnh đạo.

Nửa thế kỷ vừa qua, trong khi các hệ thống chính trị khác sụp đổ, trật tự tự do quốc tế đã vươn dậy đối đầu với các thách đố. Nhưng bao lâu các nền kinh tế của những nước thành viên lãnh đạo vẫn còn èo uột và các định chế chính trị của chúng vẫn còn chia rẽ, thì trật tự mà chúng bảo vệ không thể lấy lại đà chính trị đã một thời giúp thể chế dân chủ bành trướng khắp hoàn cầu. Thay vào đó, trật tự này sẽ diễn biến để trở thành một dự án ít tham vọng hơn: một trật tự kinh tế quốc tế tự do [a liberal international economic order] bao gồm những quốc gia có các hệ thống chính trị khác nhau. Trong ngắn hạn, sự kiện này sẽ cho phép các nước dân chủ và các nước phi tự do [illiberal counterparts] tìm ra đường lối để sống chung. Về lâu về dài, miễn là nó có khả năng thích nghi, thể chế dân chủ tự do có thế lấy lại thế ưu việt của mình.

Chủ nghĩa tự do thời cao điểm

Sau thế chiến II, các nhà làm chính sách phương Tây, nhất là tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, bắt đầu xây dựng một hệ thống toàn cầu nhằm đảm bảo họ sẽ không bao giờ lặp lại những thảm họa về hợp tác quốc tế của giai đoạn ở giữa hai cuộc đại chiến. Những kiến trúc sư của hệ thống này không những tìm cách thúc đẩy phát triển kinh tế và thoả mãn tự do cá nhân mà còn duy trì hòa bình thế giới. Họ tranh luận rằng hi vọng tốt đẹp nhất cho viễn tượng này nằm trong thị trường tự do, các quyền cá nhân, chế độ pháp trị, và các chính phủ dân cử chịu sự giám sát của tư pháp độc lập, báo chí tự do, và các tổ chức xã hội dân sự vững mạnh.

Nằm ở trung tâm của trật tự này là các định chế Bretton Woods [thỏa ước về tiền tệ và hối suất ký kết tại Bretton Woods, New Hampshire, 1944 – ND] – Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới – và Thỏa ước Chung về Thuế quan và Mậu dịch, về sau trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới năm 1995. Nền móng củng cố tất cả những định chế này là sự tin tưởng rằng các thị trường cởi mở và minh bạch với sự can thiệp tối thiểu từ Chính phủ -- cái được gọi là đồng thuận Washington [the Washington concensus] -- sẽ đặt nền móng cho sự tăng trưởng kinh tế. Được chỉ đạo bởi những nguyên tắc này, sự hậu thuẫn của Mỹ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự và ngoại giao đã giúp Đức và các nước Tây Âu, cũng như Nhật Bản, hồi phục từ sự tàn phá của Thế chiến II.

Các nhà làm chính sách phương Tây tin tưởng rằng các chuyển đổi sang thị trường cởi mở tất yếu sẽ dẫn đến sự bành trướng của thể chế dân chủ. Có nhiều trường hợp đã chứng minh rằng họ đúng. Thể chế dân chủ tự do dần dần lan rộng khắp châu Âu, châu Á, châu Mỹ-La tinh, và châu Phi phía Nam sa mạc Sahara, nhất là kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Theo thống kê của cơ quan nghiên cứu phi lợi nhuận Freedom House, số Chính phủ dân chủ đã tăng từ 44 vào năm 1997 lên đến 86 năm 2015, gắn liền với 68 phần trăm GDP toàn cầu và 40 phần trăm dân số thế giới.

Trong quá trình bành trướng của trật tự này, một khái niệm tự do mới đã thắng thế: rằng những Chính phủ đàn áp dân chúng và tạo bất ổn cho các nước láng giềng sẽ đánh mất chủ quyền cai trị [their sovereign right to rule]. Toà Hình sự Quốc tế (ICC), một định chế có quyền xâm phạm chủ quyền của một nước khi nhân danh công lý, được thành lập năm 1998. Một năm sau đó, Thủ tướng Anh Tony Blair đưa ra học thuyết về chủ nghĩa can thiệp tự do [free interventionism] tại thành phố Chicago. Ông tuyên bố rằng trong một thế giới ngày càng tùy thuộc vào nhau, “nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ cần phải được hạn chế trong một số khía cạnh quan trọng.” Năm 2005, Đại Hội đồng Liên hiệp quốc phê chuẩn “trách nhiệm bảo hộ” [the responsibility to protect, còn gọi R2P], một khái niệm cho rằng khi một Nhà nước không ngăn chặn được các hành động tàn bạo, các Chính phủ nước ngoài có thể can thiệp để chận đứng chúng. Trong một trật tự quốc tế tự do đang lên, nguyên tắc cơ bản của Hòa ước Westphalia theo đó các Chính phủ có chủ quyền nắm quyền kiểm soát công việc nội bộ của mình -- nguyên tắc làm nền tảng cho luật pháp quốc tế và LHQ – ngày càng lệ thuộc vào việc các Chính phủ tuân theo các chuẩn mực phương Tây về nhân quyền. Trật tự tự do dường như đang đặt ra các qui tắc cho toàn thể cộng đồng quốc tế.


Vận động tranh cử của Donald Trump

Trật tự tan rã

Nhưng trong thập niên vừa qua, phải đương đầu với các khủng hoảng tài chính, với các cuộc nổi dậy của phong trào dân túy, và với sự tái xuất hiện các cường quốc độc tài, trật tự quốc tế tự do đã và đang vấp ngả. Theo nhà khoa học chính trị Larry Diamond, kể từ 2006, thế giới đã đi vào một “cuộc suy thoái dân chủ”: sự bành trướng của tự do cá nhân và thể chế dân chủ đã khựng lại, nếu không muốn nói đang trên đường rút lui.

Mối nguy nghiêm trọng nhất phát xuất từ bên trong. Các cường quốc lãnh đạo của hệ thống tự do đang đối diện với tình trạng bấp bênh chính trị và kinh tế kéo dài. Hơn 25 năm qua, đồng lương trung bình tại Mỹ và châu Âu dậm chân tại chỗ, đã bào mòn uy tín của các giới tinh hoa và sức thu hút của công cuộc toàn cầu hóa. Việc mở rộng các nền kinh tế hơn bao giờ hết để đón nhận thương mại, đầu tư, và dân nhập cư đã gia tăng tổng số của cải của các quốc gia, nhưng việc này không mang lại các thành quả cục bộ cho nhiều thành phần xã hội rộng lớn. Việc điều tiết tài chính lỏng lẻo diễn ra trước cuộc khủng hoảng tài chính 2008 và việc đổ tiền để cứu các ngân hàng sau đó đã làm lung lay niềm tin của người dân đối với Chính phủ, và cuộc Đại Suy thoái này đã xói mòn hậu thuẫn của họ đối với các thị trường tư bản thông thoáng [open capital markets] hình như chỉ làm lợi cho một giới tinh hoa toàn cầu nhỏ bé.

Chiến thắng của Trump, quyết định rời EU của đa số cử tri Anh, và sự trỗi dậy của các đảng dân túy tại miền Bắc phồn thịnh và miền Nam nghèo khó của châu Âu là những triệu chứng rõ ràng cho một tâm lý bất mãn sâu sắc với tiến trình toàn cầu hóa. Tâm trạng này cũng được phản ánh trong sự suy sụp hậu thuẫn tại Mỹ và EU đối với việc mở rộng mậu dịch quốc tế, dù thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP). Trong một cuộc thăm dò năm 2014 của Cơ quan Nghiên cứu PEW, 87 phần trăm số người trả lời tại các nước đang phát triển đồng ý rằng mậu dịch có lợi cho kinh tế, trong khi vào khoảng một nửa số người trả lời tại Pháp, Ý, và Hoa Kỳ nói rằng họ tin rằng mậu dịch đang hủy hoại công ăn việc làm và hạ thấp đồng lương lao động.

Khắp châu Âu, sự phản kháng đối với việc đẩy mạnh hội nhập chính trị đã gia tăng. Trong 60 năm qua, sự tự nguyện của các quốc gia thành viên Liên Âu trong việc tập hợp sức mạnh chủ quyền thành một mối trong những cơ cấu pháp lý siêu dân tộc [supranational legal structures] đã cung cấp một chuẩn mực cho những nước khác đang tìm cách hợp tác chặt chẽ với nhau hơn trong khu vực của mình. Như nhà khoa học chính trị Simon Serfaty đã phát biểu vào năm 2003, người châu Âu đã chuyển hóa hệ thống quản trị chính trị của họ từ quốc gia-đô thị [city-states] sang quốc gia-dân tộc [nation-states] sang quốc gia thành viên [member-states]. Hiện nay, tiến trình này đã khựng lại – và rất có thể sẽ quay ngược trở lại.

Việc Vương quốc Anh trưng cầu ý kiến để ra khỏi EU có thể là một bằng chứng cho thấy Anh có xu thế đứng ngoài: mãi đến năm 1973, tức 16 năm sau ngày EU thành lập, Vương quốc Anh mới gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu, tiền thân của EU; Vương quốc Anh có một lịch sử hoài nghi lâu đời đối với châu Âu [a long history of Euroskepticism]; Anh quyết định ra khỏi đồng tiền duy nhất cho toàn khối EU và chia tay với khu vực Schengen [gồm 26 quốc gia] có biên giới bỏ ngõ cho nhau. Các nước khác chắc sẽ không theo bước chân của Anh để rời EU. Nhưng ít có lãnh đạo châu Âu nào muốn tiếp tục hi sinh chủ quyền của đất nước mình. Nhiều quốc gia châu Âu đã bác bỏ yêu cầu của EU đòi hỏi họ phải chấp nhận một hạng ngạch người tị nạn [a quota of refugees]. Các thành viên giàu trong khu vực đồng euro đang từ chối góp các nguồn lực tài chính của họ vào một kế hoạch đóng bảo hiểm chung nhằm đảm bảo tính khả thi về lâu về dài của tiền tệ duy nhất [tức đồng euro]. Ngày nay, nhiều chính khách châu Âu đang đòi hỏi thêm quyền kiểm soát chủ quyền quốc gia trong việc áp dụng các luật hiện hành của EU và việc thiết kế các hình thức mới cho công cuộc hội nhập.

Trong bối cảnh này, niềm hi vọng rằng EU có thể cung ứng một mô hình cho việc tự do hội nhập tại các khu vực khác có vẻ ngày càng mai một. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, Thị trường chung Nam Mỹ Mercosur, Liên minh châu Phi, và Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh vẫn chỉ là những cơ chế hợp tác kinh tế và chính trị rất hạn chế giữa các Chính phủ. Trong khi đó, Trung Quốc và Nga lợi dụng giai đoạn phương Tây mất niềm tin hiện nay để hiện đại hoá quân đội và hành động quyết đoán nhằm chiếm đoạt các lợi ích khu vực và địa chính trị. Những cường quốc này đã xây dựng các định chế, gồm Liên minh Kinh tế Á Âu [the Eurasian Economic Union] và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải [the Shanghai Cooperation Organization] để giúp hai nước điều phối và hợp thức hóa một trật tự chính trị song hành thách đố lại các chuẩn mực phương Tây về việc điều hành quốc gia theo đường lối dân chủ và bác bỏ bất cứ một sự can thiệp bảo vệ nhân quyền nào từ bên ngoài.

Trong bảy thập niên qua, Hoa Kỳ cung cấp một chiếc dù an ninh, ở dưới đó hệ thống quốc tế tự do đã lớn mạnh. Nhưng hiện nay, Hoa Kỳ đang hướng vào bên trong hơn bất cứ một thời điểm nào kể từ Thế chiến II. Sau các cuộc chiến tốn kém tại Afghanistan và Iraq và tình trạng hỗn loạn tiếp theo sau vụ can thiệp vào Libya, Obama đã rà soát lại vai trò quốc tế của Mỹ, thường xuyên khuyến khích các đồng minh của Mỹ tại châu Âu và Trung Đông nhận thêm trách nhiệm bảo vệ an ninh của chính họ. Trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng của mình, Trump đã bẻ quẹo luận cứ này thành một cuộc đổi chác mua bán rõ ràng: Mỹ sẽ trở thành một siêu cường đánh thuê [a mercenary superpower], chỉ bảo vệ những nước nào chịu chi trả, ngõ hầu Mỹ có thể tập trung vào nỗ lực phục hồi lại sức mạnh vĩ đại của mình đối với người dân trong nước. Với tư duy này, Trump quên mất bài học đắt giá là, đầu tư vào an ninh của các đồng minh của Mỹ là đường lối hữu hiệu nhất để bảo vệ an ninh và các lợi ích kinh tế của chính nước Mỹ. Tuy nhiên, việc Trump sẽ lãnh đạo đất nước đích xác theo đường lối nào thì vẫn còn chưa rõ.

Dù đúng dù sai, các đồng minh của Hoa Kỳ, từ Âu sang Á, hiện đang lo sợ rằng siêu cường Mỹ có thể không còn là một đối tác dấn thân và tôn trọng các cam kết. Những mối lo này đã dấy lên vào một giai đoạn nguy hiểm. Một châu Âu đang chao đảo vì sự yếu kém về định chế và kinh tế, rất dễ bị tổn thương trước các hình thức áp lực khác nhau mà Nga đang sử dụng hiện nay, gồm hỗ trợ tài chính cho các đảng dân túy châu Âu và đe dọa mở các cuộc điều binh trên các đường biên giới phía đông của NATO. Bất chấp những yếu kém kinh tế của Nga, chủ trương của Putin về một trật tự châu Âu mới, đặt cơ sở trên chủ quyền văn hóa và dân tộc, có sức thu hút mạnh mẽ đối với các đảng phái dân tộc chủ nghĩa ngày một ồn ào tại châu Âu, từ Đảng Độc lập Vương quốc Anh đến Mặt trận Dân tộc Pháp và Fidesz [Liên minh những người Dân chủ trẻ] của Hungary, mà lãnh đạo đảng, Thủ tướng Viktor Orban, đã công khai cổ vũ việc xây dựng một “Nhà nước dân chủ phi tự do” [an illiberal state].

Nhiều đồng minh khác và đối tác dân chủ của Mỹ trên thế giới cũng đang lúng túng. Nhật Bản và Nam Hàn đang vất vả phấn đấu để đối đầu với hai thách đố đến cùng một lúc, dân số già nua và nền kinh tế quá lệ thuộc vào xuất khẩu. Nhưng những xung khắc lịch sử không cho phép hai nước đưa ra một mặt trận thống nhất để thúc đẩy thể chế dân chủ tự do trong khu vực. Những quốc gia dân chủ có thị trường mới nổi, như Brazil, Ấn Độ, Nigeria, và Nam Phi, cho tới nay vẫn chưa khắc phục được những trở ngại cố hữu đối với việc tăng trưởng kinh tế bền vững và sự đoàn kết xã hội. Ngoài ra, việc nhận thức rằng quyền lực toàn cầu của Mỹ đang suy yếu và rằng đồng thuận Washington không đảm bảo tiến bộ kinh tế đã khuyến khích các thủ lĩnh độc tài tại những nước khác nhau như Philippines, Thái Lan, và Turkey -- những thủ lĩnh đã và đang làm suy yếu các cơ chế kiểm soát và quân bình quyền lực vốn là nền móng củng cố thể chế dân chủ tự do.

NGƯỜI CHÊ TA ĐỤC, NGƯỜI ĐÀ TRONG CHƯA (POT, KETTLE)

Rõ ràng là, các nước hậu thuẫn trật tự quốc tế tự do từ lâu đã bày tỏ một sự cam kết thiếu nhất quán đối với các nguyên tắc của hệ thống này. Hoa Kỳ và đồng minh nói chung có lẽ đã thúc đẩy việc tôn trọng chế độ pháp trị và điều hành đất nước một cách cởi mở bên trong biên giới của mình, nhưng mục tiêu chủ yếu ở bên ngoài khối này là bảo vệ an ninh và các lợi ích kinh tế của phương Tây, cho dù làm như thế có gây tổn thương cho uy tín của hệ thống quốc tế tự do đi nữa.

Mỹ thường hành động đơn phương hoặc một cách có chọn lọc tuân theo những luật lệ của trật tự quốc tế mà Mỹ hậu thuẫn. Mỹ xâm lược Iraq dưới một sự ủy nhiệm hợp pháp bị nhiều nước chống đối, và Quốc hội Mỹ đã từ chối phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển, một trong số nhiều công ước và hiệp ước đa phương khác. Và năm 2011, các Chính phủ Anh, Pháp, và Mỹ đã lạm dụng sự ủy nhiệm -- được ban bố bởi Nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an LHQ cho phép sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ thường dân tại Libya – khi các Chính phủ này tham gia lật đổ lãnh tụ của Libya, Muammar al-Qaddafi. Và nhiều Chính phủ phương Tây thay phiên nhau lên án Nga và Tổng thống Bashar al-Assad của Syria đã oanh kích bừa bãi thường dân tại Syria trong khi chính những nước phương Tây này lại hậu thuẫn chiến dịch đẫm máu của Saudi Arabia tại Yemen.

Do đó, người ta không mấy ngạc nhiên khi các đối thủ của phương Tây lý giải rằng những lời kêu gọi nới rộng trật tự quốc tế tự do chỉ là một lý cớ để bành trướng quyền lực chính trị phương Tây. Putin nêu lên chủ đề này vào tháng Mười vừa qua, tại cuộc họp thường niên của Hội quán Đối thoại Valdai, khi ông lên án Hoa Kỳ về việc thúc đẩy toàn cầu hóa và an ninh “cho chính mình, cho một thiểu số quốc gia, nhưng không cho tất cả thế giới.” Người ta cũng không ngạc nhiên là, định chế đa phương chính của thế giới, Hội đồng Bảo an LHQ, vẫn còn đóng băng bởi những bế tắc xưa cũ, chia rẽ vì những bất đồng giữa một bên là Nga và Trung Quốc và bên kia là Pháp, Anh, và Mỹ. Do đó, những nỗ lực của phe tự do nhằm cải tổ quan niệm chủ quyền quốc gia, như đưa ra khái niệm trách nhiệm bảo hộ [the responsibility to protect/R2P] và việc thành lập Toà Hình sự Quốc tế, không có tính hợp pháp quốc tế [international legitimacy] -- chẳng hạn, ta có thể dẫn chứng sự thất bại đang diễn ra trong việc ngăn chặn bạo động tại Syria và việc trong tháng Mười vừa qua các nước Burundi, Gambia, và Nam Phi tuyên bố sẽ rút chân ra khỏi Toà án Hình sự Quốc tế. Thậm chí Internet, từng hứa hẹn thúc đẩy một trật tự quốc tế tự do thông thoáng hơn bằng cách gia tăng quyền lực cho cá nhân thay vì cho Chính phủ, đang ngày càng bị khống chế bởi sự phân cực ý thức hệ liên quan đến các tường lửa quốc gia, các phương pháp giám sát, và các vi phạm quyền riêng tư.

GIỮ GÌN TRẬT TỰ

Liệu những thách đố này có báo hiệu sự cáo chung của trật tự quốc tế tự do không? Chắc là không. Các nước dân chủ tự do có truyền thống lâu đời vẫn giữ được sức bật của mình. Dù họ có đối mặt với bất cứ thách đố nào trong nước, từ tình trạng bất bình đẳng đến nạn thất nghiệp, họ vẫn có thể tiếp cận vấn đề từ thế mạnh so với các nước có thị trường mới nổi, trong đó có nhiều nước có mức tăng trưởng GDP cao nhưng chưa có thể chuyển đổi từ tăng trưởng do xuất khẩu và đầu tư [export- and investment-led growth] sang tăng trưởng do tiêu thụ và sáng kiến [consumtion- and innovation-driven growth]. Các thể chế dân chủ phương Tây được thiết kế để cho phép người dân nói lên những bức xúc và đổi mới tầng lớp lãnh đạo chính trị. Các nền kinh tế phương Tây hoạt động một cách tương đối năng động, minh bạch và cởi mở, do đó thúc đẩy được sáng kiến. Những phẩm chất này cho phép các định chế chính trị của họ dễ dàng phục hồi tính hợp pháp và các nền kinh tế của họ nhanh chóng lấy lại đà tăng trưởng. Trái lại, các nước trung ương tập quyền hay phi tự do, chưa chứng minh được rằng các hệ thống chính trị của họ sẽ tồn tại sau các chuyển đổi kinh tế mà họ đang tiến hành.

Tuy vậy, các nước dân chủ tự do không thể trì hoãn các quyết định chính trị khó khăn thêm nữa. Họ cần phải chỉnh sửa chính mình nếu muốn duy trì trật tự quốc tế tự do của họ. Họ cần đẩy mạnh năng suất cũng như đồng lương công nhân, nâng cao sự tham gia của lực lượng lao động thậm chí trong khi các công nghệ mới loại bỏ công ăn việc làm cũ, giúp người di dân hội nhập vào đời sống, đồng thời quản lý các xã hội đang già nua, từng bước diễn tiến từ nhà nước phúc lợi có ngân sách trung ương sang các xã hội phúc lợi do địa phương quản trị, trong đó các vùng, các thành phố, và các chính quyền đô thị tự trị kiểm soát một phần lợi tức thuế [tax income] lớn hơn trước và nhờ thế có thể điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ xã hội phù hợp với các nhu cầu địa phương. Các Chính phủ tự do có thể vươn lên đáp trả những thách đố này, hoặc là bằng cách đầu tư hơn nữa vào giáo dục, cải thiện cơ sở hạ tầng vật lý và kỹ thuật số [physical and digital infrastructure], hoặc là hiện đại hóa các qui định thường bóp nghẹt doanh nghiệp và đà tăng trưởng trong khu vực dịch vụ. Đây có thể chỉ là những bước khiêm nhượng. Nhưng sức hấp dẫn và, trên thực tế, sự tồn tại của một trật tự quốc tế tự do tùy thuộc vào khả năng mang lại những lợi ích cho các xã hội nằm trong trật tự này, những lợi ích ưu việt hơn bất cứ một trật tự nào khác.

Nếu thế giới tự do có thể điều chỉnh lại hướng đi của mình và tránh áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch, nó có khả năng thấy được rằng các cường quốc đang lên phi-phương Tây (non-Western rising powers), chủ yếu là Trung Quốc, sẽ muốn duy trì trật tự kinh tế quốc tế hiện hành với các thị trường tương đối cởi mở và các luồng đầu tư tự do. Dẫu sao, chỉ bằng cách thông qua sự hội nhập liên tục vào chuỗi cung cấp hàng hóa, dịch vụ, nhân lực, và kiến thức toàn cầu, các thị trường mới nổi [emerging makets] mới có thể đáp ứng các nguyện vọng của giai cấp trung lưu đang gia tăng tại nước họ. Như học giả G. John Ikenberry nhận xét trong cuốn Liberal Leviathan, một tác phẩm ông xuất bản năm 2011, Hoa Kỳ và Trung Quốc – hai cường quốc có khả năng cao nhất trong việc định đoạt tương lai của trật tự thế giới – có thể cả hai đều không nhân nhượng trên các nguyên tắc cốt lõi về việc quản trị đất nước và an ninh quốc gia, nhưng họ có thể chung sống tốt đẹp nhất và cùng phát triển trong một trật tự kinh tế quốc tế tự do.

Do đó, việc Trung Quốc tiếp tục phát triển kinh tế đều đặn hoàn toàn nằm trong lợi ích của phương Tây. Các thị trường hàng hóa, dịch vụ, và cơ sở hạ tầng của Mỹ và châu Âu cần phải tiếp tục đón nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài [foreign direct investment] của Trung Quốc, miễn là các công ty Trung Quốc phải tuân theo luật lệ của Mỹ và châu Âu về an ninh, về tính minh bạch và việc bảo vệ tài sản trí tuệ. Các nước châu Âu cần phải áp dụng một đường lối tương tự với Nga, miễn là các công ty Nga tuân theo luật lệ của EU. Một sự cam kết với nhau để duy trì trật tự kinh tế quốc tế tự do sẽ giúp các Chính phủ phương Tây và các Chính phủ đối tác phi tự do mở ra các đại lộ khác dẫn đến việc hợp tác trên các thách đố chung, như chủ nghĩa khủng bố và thay đổi khí hậu, như Trung Quốc và Hoa Kỳ từng thực hiện trong vài năm qua.

Trong khi đó, các Chính phủ và doanh nghiệp châu Âu cần phải tham gia nỗ lực do Trung Quốc lãnh đạo nhằm nối Đông Bắc Á với châu Âu xuyên qua lục địa Á-Âu, một phần của chuỗi dự án hạ tầng cơ sở khu vực được mênh danh Sáng kiến một Vành đai một Con đường [the Belt and Road Initiative]. Năm 2016, khối lượng thương mại toàn cầu bị ứ đọng trong quí I, rồi rớt xuống 0,8% vào quí II. Điều này phản ánh một sự sa sút có tính cơ cấu đang diễn ra trong tỉ lệ tăng trưởng mậu dịch, trong khi các thị trường mới nổi, như Trung Quốc, chế tạo thêm sản phẩm của mình và các nước phát triển mang một số công việc chế tạo về nước. Trong bối cảnh này, việc đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng để nối những vùng ven biển thịnh vượng của châu Á với những vùng nội địa kém phát triển và sau đó với châu Âu có thể tạo thêm cơ hội tăng trưởng kinh tế trong cả hai thế giới, tự do và phi tự do [the liberal and the illiberal worlds]. Thay vì chống lại những sáng kiến này, Hoa Kỳ nên hậu thuẫn những định chế tài chính vùng và đa phương do phương Tây lãnh đạo, như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Tái thiết và Xây dựng châu Âu, và Ngân hàng Phát triển châu Á, khi chúng hợp lực với Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á và Ngân hàng Phát triển Mới (được thiết lập bởi khối BRICS – Brazil, Russia, India, China, và South Africa) để theo đuổi những dự án nằm trong lợi ích kinh tế của mọi nước đồng thời tuân theo những nguyên tắc bền vững về môi trường và tài chính.

Một sự hợp tác tương tự sẽ khó xây dựng với Nga. Hệ thống quản trị kinh tế và chính trị trung ương tập quyền và thiếu minh bạch của Nga khiến cho một sự hội nhập sâu sắc hơn trở thành xung khắc với thị trường và hệ thống dựa vào luật lệ của EU. Ngoài ra, các thành viên khối NATO đã bắt đầu một sự nâng cấp rất cần thiết về quân sự để sẵn sàng đối đầu với những khiêu khích gần đây của Nga. Những căng thẳng của EU và NATO với Nga có khả năng kéo dài, mặc dù việc Trump đắc cử Tổng thống báo hiệu một sự thay đổi trong các quan hệ Mỹ-Nga. Tuy nhiên, sáng kiến của Trung Quốc nhằm xây dựng các con đường mới để kết nối với kinh tế Á-Âu có thể cung cấp một phương án khác cho Hoa Kỳ và châu Âu đối phó với Nga.

Các nước đã bỏ công xây dựng trật tự quốc tế tự do, hiện nay trở nên suy yếu hơn so với ba thế hệ giàu mạnh trước đây. Họ không còn là tấm gương chứng tỏ cho các nước khác thấy sức mạnh của các hệ thống quản trị chính trị và kinh tế tự do. Vì thế, các Chính phủ độc tài có thể ra sức thành lập một trật tự chính trị khác để thay thế, một trật tự được cai trị bằng sức mạnh hơn là dựa vào luật lệ quốc tế.

Nhưng các nhà làm chính sách của phe tự do sẽ sai lầm nếu chỉ thúc đẩy nước mình trở về thế cương quyết phòng ngự hay sử dụng chính sách ngăn chặn. Một bế tắc kéo dài giữa phe ủng hộ trật tự quốc tế tự do và phe chống đối nó có thể vô tình dẫn đến xung đột vũ trang. Một đường lối tốt đẹp hơn sẽ là, các nước tự do phải dọn mình để chấp nhận một thời kỳ sống chung gượng gạo với các nước phi tự do, hợp tác trong một số trường hợp và cạnh tranh trong những trường hợp khác [“vừa hợp tác, vừa đấu tranh”]. Thế giới chính trị quốc tế sẽ tiếp tục chia rẽ giữa các nước tự do và các nước trung ương tập quyền, nhưng cả hai phe đều sẽ phụ thuộc vào một trật tự kinh tế quốc tế tự do [a liberal international economic order] vì thịnh vượng và an ninh nội bộ của họ. Thời gian sẽ cho biết chính thể nào có sức bật mạnh hơn. Nếu lịch sử cho ta ít nhiều chỉ dấu, thì thể chế dân chủ tự do vẫn là một dự đoán hay nhất.


ROBIN NIBLETT là Giám đốc của Chatham House, [Viện Nghiên cứu Hoàng gia về các Vấn đề Quốc tế / The Royal Institute of International Affairs].

Câu chuyện cuối năm: lẽ nào thế hệ nay hóa thân thành ông Tổng?

Mẫn Nhi
1/19/2017


Một gia đình nhiều quá là 3 thế hệ. Nhưng một Việt Nam thì có bao nhiêu thế hệ.

Năm một ngàn 8 trăm 8 tư (1884) triều đình Nhà Nguyễn và Pháp Quốc ký hòa ước mang tên Patenotre - chính thức đặt Việt Nam vào vòng bảo hộ.Đó có thể là mở đầu cho câu chuyện về những thế hệ…

Chúng ta có một thế hệ văn thân - chí sĩ, là thế hệ mà những nhà nho yêu nước đã vứt bỏ cuộc sống vương giả “Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ” để đối phó với những tàu chiến bằng sắt, súng bắn đạn liên hồi, mà làm nên những trận “Súng giặc đất rền”. Là thế hệ cởi bỏ tư duy nhà nho, cắt búi, mặc đồ Tây như cụ Châu, cụ Trinh, Cụ Kháng mà làm nên một cuộc “duy tân” cho đất nước, đặng khiến cho “Lòng dân trời tỏ”.



Chúng ta có hẳn một thế hệ hận thù giặc Tây, nơi mà tiếng súng và ám sát (hay nôm na là chủ trương vũ lực cách mạng) được nhắm vào những kẻ “ông đầm, bà Tây” để gióng lên tiếng chuông “đền nợ nước, trả thù nhà”. Thế hệ này vang lên tiếng bom ám sát toàn quyền Đông Dương của Phạm Hồng Thái; gầm rống lên tiếng thét “không thành công cũng thành nhân” với cuộc cách mạng Yên Bái của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học.

Chúng ta cũng có một thế hệ học sinh-sinh viên miền Nam, những người được hưởng nền dân chủ ít ỏi của nền đệ nhất và đệ nhị VNCH. Những người dám căng khẩu hiệu và “đòi dân sinh, dân chủ”. Một thế hệ “dấn thân dân chủ”, thế hệ mà báo Tuổi Trẻ cách đây ít ngày đã miêu tả họ - những con người đã “chuẩn bị cuộc bãi khóa, từ vẽ bích chương trên giấy dày khổ lớn, vẽ băng rôn trên vải trắng để treo đến lo vũ khí tự vệ như bom xăng, gậy gộc”. Thế hệ “dậy mà đi hỡi đồng bào ơi” về mặt đòi dân chủ, quyền được sống và quyền được làm người trong 1 thể chế dân chủ đầy non trẻ.

Chúng ta cũng có một thế hệ “phụng sự lý tưởng”, là những nam thanh nữ tú của các trường đại học bị quyến rủ bởi “chủ nghĩa Mác - Lê nin; lời kêu gọi của Bác”, hình thành những quân đoàn xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Đó là thế hệ “hành quân qua hàng ngàn thôn xóm cháy rụi, những cánh đồng khô héo vì chất độc”; những người “không mơ gì hơn là diệt được thật nhiều giặc Mỹ, anh không cần gì cho bản thân, kể cả tình yêu và sự nghiệp”; đó là thế hệ của “ngọn lửa căm thù”; là thế hệ với quan điểm “chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài, sống phí”, thế hệ của sự “hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Anh sinh viên Nguyễn Văn Thạc; chị Y sĩ Đặng Thùy Trâm; binh đoàn sinh viên - trí thức miền Bắc năm 1968; là thế hệ trẻ miền Bắc nằm xuống với con số 10.333 phần mộ ở chỉ một nghĩa trang liệt sĩ mang tên Trường Sơn.

Chiến tranh qua, đổ nát và hoang tàn; nền kinh tế thị trường ập đến xóa bỏ những thứ chắp vá, rách rướm của thời bao cấp, nó cũng đổ xô màu áo quân phục - chiến tranh - ý thức hệ hình thành nên một “thế hệ bỏ đi”. Đó là tên thế hệ mà ông chủ ga-ra trong tiểu thuyết Hội hè miên man quát một anh thợ là “tất cả những người như ông, những người đã phục vụ trong chiến tranh. Các ông là thế hệ bỏ đi”. Vâng, 1 thế hệ bỏ đi với những ông quan quân đội đâu đâu cũng là đất - mà đất lại là vàng - cái “quân đội nhân dân” đã ăn hết 100 hecta đất để làm sân golf mà mãi giờ đây mới “tạm” trao lại cho dân 21 hecta, trong khi máy bay không còn chỗ đậu; là thế hệ vứt đi với thẻ đảng viên rẻ rúng - quan chức trở thành một nghề kiếm tiền dễ dàng nhất - dù chỉ là một anh địa chính đất ở xã; là một thế hệ vứt đi khi đâu đâu trong nhóm người trở về từ chiến tranh nay trở thành những lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước trở thành những ông vua tập thể; là thế hệ bỏ đi với những ai đã và đang mải miết “ăn mày dĩ vãng” như cách nhà văn Chu Lai sử dụng. Họ ăn - ăn và ăn đến nỗi, có người thốt lên: giá như không có cái dĩ vãng chết tiệt đấy thì đất nước không lầm than đến thế này; ăn mày đến độ - họ tử hình ngầm những Trần Phú - Nguyễn Văn Cừ - Hà Huy Tập và hàng triệu thanh niên miền Bắc thông qua tiếng rủa của người đời.

Nhưng đấy không phải là thế hệ tôi nhắc đến, bởi đó là thế hệ của quá khứ, thế hệ của sự ăn hại… Tôi đang muốn nói nhiều hơn về một thế hệ, một thế hệ trí thức và biết dấn thân.

Nhưng hiện nay, cái chúng ta đang thấy là một thế hệ trẻ chỉ mải miết gào thét khi sao Hàn đến và liếm ghế họ đi; một thế hệ trẻ nghiêu ngao vô tư những bài ca bolero buồn đến não và đắm mình trong “phận người con gái”; một thế hệ ngày đêm sẵn sàng chịu đựng để nghe những Dương Minh Tuyền chửi rủa trên mạng facebook hay cười phá lên bởi những hài tục tĩu của Phong Lê; một thế hệ click vào trang web sex để quay tay lấy động lực ngày mới, tìm kiếm các tin sao A hở vú; sao B độn mông,… một thế hệ “sáng uống café/ tối bàn nhậu”… Một thế hệ trẻ chỉ biết hưởng thụ và một thế hệ chỉ biết “du học, đi đi, đừng về”.



Công an đánh chết người - kệ mẹ nó; ông quan chức đòi hối lộ - chuyện thường thôi; lãnh đạo làm thất thoát hàng ngàn tỷ đồng - có gì đâu, thực phẩm bẩn chứa chất ung thư trôi nổi - ôi dào, sống nay chết mai; kẹt xe 12 giờ trưa - ai cũng thế chứ mỗi ta đâu… Chúng ta, thế hệ trẻ đồng lõa với chính những thực tại bất công trong xã hội này, vậy chúng ta có tư cách gì để phê phán ông Tổng bí thư, Giáo sư chuyên ngành Đảng - người nối tiếp tạo ra những chuyện mà chúng ta tặc lưỡi, nhún vai, bĩu môi đại khái rồi phủi đít đi làm chầu nhậu, nghe nhạc bolero cho qua ngày?

Ai trong chúng ta nhục với nỗi nhục lạc hậu; ai trong chúng ta vỗ ngực rằng chúng ta tin tưởng mình làm đúng mà nói không với tiêu cực và tham nhũng; ai trong chúng ta tin rằng mình sống sẽ không bao giờ hối tiếc với tuổi xuân; và ai; ai ai dám làm nên những thế hệ dám đòi dân sinh, dân chủ như cách mà ông bà, bố mẹ chúng ta từng làm. Hay tất cả chỉ biết “hưởng thụ và bỏ chạy”? Như cái cách mà môi trường thực phẩm - chính trị ngày càng bẩn, nhưng người Việt ta vẫn mãi chìm trong gần 4 tỷ lít bia trong năm?

Chúng ta không “phụng sự” cho ý thức hệ nào, chúng ta chỉ phụng sự cho sự bình yên và tốt đẹp cho chính chúng ta, cho con cháu chúng ta? Hãy nuôi ngọn lửa căm thù với bất công và tiêu cực trong xã hội; từ câu chuyện gian thương Việt với thực phẩm bẩn đến quan chức với quản trị nhà máy “lỗ theo kế hoạch”, nhỏ hơn là nói không với chuyện anh công an nào đó làm luật với chúng ta.

Không ai xúi giục bạn dấn thân rồi phải bị tù đầy, hay tử hình. Nhưng điều khủng khiếp là hãy đừng để tuổi trẻ trở thành những ông cụ già ngồi an phận với những sự trắng đen đổi dời, hãy bắt đầu phòng tránh sự “xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài, sống phí” trong tương lai. Hãy nghĩ đến 1 ngày người thân bạn bị bức cung, nhục hình; bạn bị móc hết nhiều đồng tiền trong túi vì làm luật; và phải gánh nợ đầy vô lý bởi thói tiêu hoang của quan chức nhà nước.

Hãy trở thành một thế hệ kiến tạo - kiến tạo tương lai của bạn - gia đinh bạn - con cái bạn bằng việc đọc 19 quyền dân sự và chính trị, và từng bước thực hành.

Một lần nữa, tôi tin bạn sẽ làm được. Vì tuổi trẻ là thứ quý giá nhất của 1 đời người cho sự dấn thân và cống hiến.

M.N.

Nguồn: http://www.ijavn.org/2017/01/vntb-cau-chuyen-cuoi-nam-le-nao-he-nay.html