2/28/2015

ĐỪNG SỐNG BẰNG DỐI TRÁ

Solzhenitsyn là một văn hào người khối Sô Viết, được giải Nobel về Văn Chương. Solzhenitsyn viết một tác phẩm nổi tiếng về trại tập trung cưỡng bách lao động GULAG của Liên Sô ngày ấy. (nmvn)
 
 

ĐỪNG SỐNG BẰNG DỐI TRÁ
 
 Alexander Solzhenitsyn, 18/2/1974
Thái Phục Nhĩ chuyển ngữ
 
 
 
"... Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:
 
“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”..."
 
000
 
Sau đây là toàn văn của bài tiểu luận của Alexander Solzhenitsyn “Đừng Sống bằng dối trá” có lẽ là cái cuối cùng ông viết trên đất quê hương mình – trước khi Liên Xô sụp đổ – đã và lưu hành trong giới trí thức của Moscow tại thời điểm đó. Bài tiểu luận ghi ngày 12 Tháng Hai, cái ngày mà mật vụ đột nhập vào căn hộ để bắt ông. Ngày hôm sau, ông bị lưu đày sang Tây Đức.
 
 
“Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.
 
Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?
 
Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.
 
Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng tai đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?
 
Được chứ, được tất cả là đằng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.
 
Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.
 
Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chúng tôi trong sạch.
 
Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.
 
Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.
 
Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.
 
Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.
 
Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.
 
Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.
 
Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.
 
Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.
 
Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.
Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:
  • bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;
  • không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;
  • không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;
  • không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;
  • không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;
  • không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;
  • không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;
  • lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;
  • không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.
Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.
 
Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.
 
Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.
 
Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.
 
Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.
 
Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?
 
Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.
 
Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.
 
Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.
 
Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:
 
“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”
 
 
.
Tiếp theo một bài đăng hôm nay về sự hung hãn của một số người VN, nmvn cho đăng thêm một bài nhận định nữa về tính khí này (cho đến hôm nay, số người đánh nhau phải vào bịnh viện đã trên 10,000)


 Người Việt ngày càng hung hãn: Nguyên nhân vì đâu?

26/02/2015 12:58

Trước sự việc hơn 6000 người nhập viện, 15 người chết do đánh nhau trong dịp Tết, một loạt tờ báo đã cho tìm hiểu nguyên nhân vì sao người Việt lại ngày càng trở nên hung hãn đến như vậy. Những người được hỏi đều là những chuyên gia, làm việc trong ngành xã hội.
Người dân dễ dàng vung dao chém tới tấp người khác chỉ để cướp phết tại lễ hội “Đả cầu cướp phết”. Ảnh: Tuổi Trẻ
Cali Today News - Phần đa đều cho rằng, nguyên nhân chính yếu xuất phát từ hệ thống giáo dục yếu kém khiến văn hóa ứng xử của người dân “bị xô lệch”. Một số ý kiến khác lại cho rằng, bia rượu trong dịp Tết đã khiến người dân không kiềm chế được việc mình làm, dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
Trên tờ Người Lao Động dẫn lời Tiến sỹ Hoàng Kim Oanh, nguyên Phó trưởng khoa Giáo dục tiểu học của trường Đại học Sài Gòn cho rằng: “Vấn đề giáo dục văn hóa ứng xử đang bị bỏ quên và việc nhiều người dễ dàng đánh nhau là hậu quả tất yếu”.
Để bổ túc cho quan điểm của mình, Tiến sỹ Oanh cho rằng, trong quá trình giảng dạy, ông và đồng nghiệp rất băn khoăn về nội dung giáo dục trong một số sách giáo khoa được sử dụng trong giáo trình cấp tiểu học hiện nay. Trong rất nhiều câu chuyện mà trẻ em được học, lồng vào đó là những câu chuyện dân gian ẩn chứa những điều phi giáo dục, như: khiến trẻ con có suy nghĩ độc ác, tàn nhẫn để đạt mục đích, những điều này không giúp cho trẻ con hướng thiện mà chỉ khiến cho trẻ em trở nên vụ lợi, chỉ biết cho bản thân. Trong khi đó, rất nhiều câu chuyện cổ tích hấp dẫn, mang đậm nội dung nhân văn đáng lý ra phải được phổ biến thì lại không được đưa vào giảng dạy. Và vị Tiến sỹ này kêu gọi: “Hãy cứu vớt tâm hồn các em ngay từ những bài học yêu thương đầu đời. Đừng để giáo dục vô tình tiếp tay cho cái ác”.
 Bệnh viện là nơi ghi nhận rõ nhất hậu quả từ thói hung hãn của người Việt. Ảnh” Người Lao Động.
Đồng ý với quan điểm của Tiến sỹ Oanh, bà đại biểu Quốc hội Bùi Thị An còn kêu gọi cần phải “rung lên tiếng chuông cảnh báo”, và tự vấn lương tâm, không nên đổ lỗi cho người khác trước thực trạng đau lòng. 
Bà An còn cho biết thêm, trong những lần bà đi đến một số đền chùa, lễ hội cái mà bà thường nhìn thấy là cảnh chen lấn, xô đẩy, cãi vã nhau. Bên cạnh đó, bà còn đòi hỏi phải “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” để làm sao cho nền giáo dục này trở nên nhân văn hơn.
Một ý kiến từ Tiến sỹ Hà Thanh Vân thuộc Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ được báo Người Lao Động dẫn lời cho rằng, việc xảy ra việc người dân dễ dàng đánh nhau đến từ: Hậu quả nhậu quá đà.
“ Tôi cho rằng có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến nguyên nhân đầu tiên là do ‘văn hóa nhậu’. Khi nhậu thì xảy ra cãi vã, lời ra tiếng vào, mọi người không kiềm chế được bản thân mình và đánh nhau là phương cách người ta dùng để giải tỏa cơn giận dữ”.
Ngoài những ý kiến trên còn có ý kiến đổ lỗi do “cơ chế thị trường” khiến con người “quay cuồng với tiền bạc” nên thiếu đi tính vị tha, dẫn đến vô cảm và sẵn sàng tước đoạt mạng sống người khác.
Song, theo cách nhìn nhận của chúng tôi, những ý kiến trên chưa phải là toàn bộ làm cho người dân Việt Nam trở nên hung hãn, sẵn sàng “choảng” nhau với bất cứ lý do nào. Có một điều không thể phủ nhận rằng, với chế độ, cách vận hành hệ thống luật pháp theo cảm tính như hiện nay đã làm cho người dân không còn tin tưởng vào pháp luật. Họ không tin rằng, việc đem vấn đề ra cho pháp luật xử lý sẽ khiến mọi việc được ổn thõa. Hay nói khác hơn, người dân không hề tin vào công lý thực sự tồn tại. Bởi vậy, thay vì nhờ vào cơ quan chấp pháp, họ “tự xử” để trực tiếp lấy lại công bằng cho mình.
Rất nhiều ý kiến rất đúng khi cho rằng, giáo dục là nguồn gốc của vấn đề, nhưng các chuyên gia lại không dám chỉ thẳng ra rằng, chính việc áp dụng chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam khiến cho con người ngày càng trở nên độc ác, hung hãn. 
Trong một bài báo mà trước đây chúng tôi đã cho đăng lại một cuộc nghiên cứu về người Đức sống trong vùng Đông Đức, nghiên cứu này đã được Tuần báo The Economist đăng tải. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, hệ thống Xã hội chủ nghĩa theo kiểu Xô Viết xúi giục con người không những có tâm địa xấu mà còn ưa làm chuyện gian trá. Cụ thể là: coi nhẹ vấn đề đạo đức, sự lương thiện.
Nền giáo dục hiện nay không đào tạo ra những con người phục vụ xã hội, mà cốt làm sao sản sinh ra những công dân biết phục tùng, phục vụ chế độ. Bên cạnh đó, nền giáo dục lại còn khuyến khích học sinh phải biết căm thù, từ căm thù “thực dân Pháp”, “đế quốc Mỹ” đến chế độ Sài Gòn. Lồng vào đó là những chương trình giảng dạy kích động bạo lực, gây hận thù, gây chia rẽ, dối trá. Hệ thống giáo dục này còn hướng cho học sinh căm thù ngay cả chính ông bà, cha mẹ, những người đã từng làm việc cho chính quyền Sài Gòn trước đây.
Kêu gọi thay đổi toàn diện nền giáo dục hiện nay nhưng chế độ độc tài Cộng sản vẫn tồn tại thì cũng như ‘bình mới, rượu cũ”, cái cốt lõi vấn đề vẫn không thể nào thay đổi được. Nền giáo dục chỉ được tốt hơn, con người ngày càng văn minh, hành xử với nhau lịch thiệp một chỉ chế độ độc tài hiện nay được thay thế bằng một chế độ mới, văn minh hơn, nhân bản hơn mà thôi.
Người Quan Sát
Nmvn đăng một bài phỏng vấn Hồng Y Nguyễn Văn Nhơn, trong trang điện tử của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (đăng ngày 17/2/2015), và xin có vài nhận xét trong nay mai về lập trường của Hồng Y Nguyễn Văn Nhơn, với phương diện của một người ủng hộ một VN tự do dân chủ.

ngaymaivietnam

 
 
 
Đức tân Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn trả lời phỏng vấn America Magazine: “Hãy mạnh dạn lên đường đến với người nghèo
 







Đức tân Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn trả lời phỏng vấn America Magazine:
“Hãy mạnh dạn lên đường đến với người nghèo”

WHĐ (17.02.2015) – Ngay sau khi Toà thánh công bố danh tính 20 vị hồng y do Đức Thánh Cha Phanxicô tuyển chọn, tuần báo America Magazine của Hoa Kỳ đã liên hệ với trang tin điện tử của Hội đồng Giám mục Việt Nam (WHĐ) để xin phỏng vấn Đức tân Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Đức hồng y Tổng giám mục Hà Nội đã nhận trả lời America Magazine với nội dung sau đây*.
 
***
Theo Đức Tổng giám mục Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, châu Á “thích hợp hơn với cách nói về cuộc đời Đức Giêsu như chính Ngài đã rao giảng bằng dụ ngôn hai nghìn năm về trước. Một cách thế của phương Đông chứ không phải theo phong cách duy lý trí”.
Ở tuổi 76, Đức hồng y đã dành cả một đời xây dựng những chiếc cầu nối giữa Kitô giáo và đất nước Việt Nam, nỗ lực phát ngôn bằng con đường dẫn đến đối thoại và hiệp thông. Với xã hội Việt Nam, Công giáo đã từng bị cho là mơ hồ; vào thế kỷ thứ 19 thì được cho là tôn giáo của người Pháp - là những kẻ chiếm đóng đất nước. Vào cuối thế kỷ 20, đã có lúc chính quyền cộng sản cho rằng đây là mối đe dọa ngoại bang. Toà thánh không có một tiếng nói chính thức, cụ thể như việc tấn phong giám mục của Đức hồng y vào năm 1991, nhưng phải được sự chuẩn thuận của chính quyền. Nhiều linh mục và giáo dân bị cầm tù với những tội danh hoạt động chống chính quyền.
 
Những năm gần đây, Việt Nam đã cho phép nhiều tự do tôn giáo hơn trong một đất nước có 6 triệu người Công giáo, nhiều mâu thuẫn đã xảy ra, cụ thể là đối với những lời hứa trao trả tài sản đã tịch thu như nhà dòng và nhà thờ. Năm 2007, nhiều giáo dân và lãnh đạo Giáo hội đã phản kháng. Tuy nhiên theo Đức hồng y thì “những cuộc đấu tranh và va chạm ấy chẳng mang lại ích lợi cho ai”.
 
Thừa nhận lo lắng của nhà cầm quyền, Đức hồng y đã trình bày với chính quyền rằng việc đòi lại tài sản của Giáo hội “không nhằm vào tư lợi, tích trữ hay làm giàu nhưng muốn bảo đảm rằng chúng mưu ích cho mọi người”.  Quan điểm này không phải bao giờ cũng vừa lòng các tín hữu, nhất là đối với những quan ngại cho việc bổ nhiệm Tổng giám mục Hà Nội vào năm 2010.
 
Thế nhưng mối quan tâm của Đức hồng y đã đem lại những hoa trái: kể từ năm 1990, Toà thánh đã cử đặc sứ đến Việt Nam, mong muốn bình thường hóa quan hệ. Năm 2011, lần đầu tiên Việt Nam đã chấp thuận vị Đại diện Toà thánh không thường trú. Phát biểu sau Công nghị hồng y vào ngày thứ Bảy, Đức hồng y cho biết cuộc đối thoại “đòi hỏi kiên nhẫn và chân thành” và “tôi đã thấy những nỗ lực từ Toà thánh lẫn Chính phủ”; tuy nhiên cho dù “hướng đi có vẻ lạc quan nhưng lộ trình còn dài và chúng tôi cần thời gian”.
– Ngài cảm nhận thế nào khi được chọn làm hồng y? Gia đình của ngài đã phản ứng như thế nào?
 
Tôi thật sự ngỡ ngàng khi được biết mình có tên trong danh sách những vị tân Hồng y của Giáo hội Công giáo. Lý do là tôi đã đến tuổi nghỉ hưu và đang chờ đợi sự chấp thuận của Toà thánh cho tôi nghỉ hưu. Tuy nhiên, vì là con người của Giáo hội, nên tôi đón nhận tất cả mọi biến cố trong tinh thần Giáo hội. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, đối với Đức giáo hoàng Phanxicô. Tôi xem tước vị Hồng y là một vinh dự; và theo tinh thần Giáo hội, vinh dự là để phục vụ anh em mình hữu hiệu hơn. Với ơn Thiên Chúa và trong khả năng của tôi, tôi sẽ tiếp tục yêu thương và phục vụ Giáo hội và Quê hương tôi theo trách nhiệm mà tôi được trao phó. Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Công giáo từ lâu đời. Cha mẹ tôi có 6 người con, 3 trai và 3 gái mà 3 người đã được dâng cho Chúa. Những người trong gia đình tôi cũng như các bạn hữu của tôi hiệp ý tạ ơn Thiên Chúa, tri ân Đức giáo hoàng Phanxicô và Giáo hội; chúc mừng tôi và khích lệ tôi tiếp tục yêu thương và phục vụ Giáo hội và Quê hương theo trách nhiệm của mình.
 
– Ngài hy vọng điều gì cho giáo hội hôm nay?
 
Giáo hội do Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông đồ và các Đấng kế vị Tông đồ, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn, cùng với lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20), nên tôi vững tin vào Giáo hội và đặt niềm phó thác cho Giáo hội. Có thể nói: “Đời sống của tôi là thuộc về Giáo hội và cho Giáo hội”. Tôi hy vọng Giáo hội chiếu toả khuôn mặt hiền lành, nhân từ, giàu lòng thương xót của Thiên Chúa bằng sứ mạng yêu thương và phục vụ của mình.
 
– Đâu là thông điệp mà ngài cảm nhận giáo hội cần gửi đến thế giới hôm nay?
 
Tin mừng bình an đầy niềm vui và hy vọng là sứ điệp mà thế giới ngày hôm nay đang cần. Tôi tin tưởng Giáo hội của Chúa có thể loan báo và làm chứng về Tin mừng bình an cho nhân loại.
 
– Đâu là những vấn đề căng thẳng đang đối diện với địa phương và giáo phận của Đức hồng y?
 
Quê hương Dân tộc của chúng tôi trải qua chiến tranh lâu dài và gánh chịu hậu quả của chiến tranh về nhiều phương diện. Tôi cầu nguyện cho Quê hương Dân tộc chúng tôi vượt qua những khó khăn thử thách để được phát triển tốt đẹp, đem lại niềm hạnh phúc và ổn định cho mọi người.
 
– Điều gì đã giúp Đức hồng y học biết về Chúa và Hội thánh?
 
Trong số gần 90 triệu 5 trăm ngàn người của Cộng đồng Dân tộc Việt Nam, người Công giáo chúng tôi mới khoảng 7 triệu người, chiếm 7,5%. Như vậy, chúng tôi thực sự là thiểu số. Giáo hội có 3 giáo tỉnh và 26 giáo phận, 43 giám mục, trong đó có 13 vị đã nghỉ hưu. Hiện chúng tôi có 8 Đại chủng viện và nhiều cơ sở đào tạo ơn gọi chuẩn bị chủng sinh cho các Đại chủng viện; con số các Dòng tu, Tu đoàn Tông đồ và Tu hội đời khoảng gần 200. Về đời sống bình thường, chúng tôi chia sẻ hoàn toàn các sinh hoạt và vận mệnh của Dân tộc chúng tôi. Người Công giáo ở giáo tỉnh Hà Nội cũng như ở giáo tỉnh Huế, ở giáo tỉnh Saigon... chúng tôi vẫn sinh hoạt tôn giáo bình thường. Tôi có thể nói: Giáo hội Việt Nam hiệp nhất với nhau, sống động và hiệp thông với Giáo hội toàn cầu, với Toà thánh Vatican, với Đức giáo hoàng Phanxicô.
 
– Đâu là dung mạo của Chúa từ Kinh Thánh và lịch sử Hội thánh vốn nâng đỡ và thúc đẩy Đức hồng y?
 
Giáo hội Việt Nam được sinh ra và lớn lên nhờ các Thừa sai và các Chứng nhân đức tin. Tin mừng của Chúa đã được loan báo cho Tổ tiên Việt Nam chúng tôi từ trên 400 năm rồi. Cuộc đời nghèo khổ và công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu mà đỉnh cao là cuộc tử nạn trên thập giá để làm chứng rằng: “Không ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình (Ga 15,13); đồng thời gương sống thánh thiện của hơn 130.000 chứng nhân đức tin của Tổ tiên Việt Nam chúng tôi luôn là nguồn trợ lực và nâng đỡ chúng tôi trong cuộc lữ hành đức tin. Do đó, lời mời gọi của Đức giáo hoàng Phanxicô chạm tới thâm sâu của chúng tôi. Chúng tôi luôn nhắc nhở nhau mạnh dạn lên đường đến với người nghèo, người bị thiệt thòi, các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa; chúng tôi cũng ý thức phải đi ra khỏi chính mình để đem niềm vui Tin mừng đến số đông đồng bào của chúng tôi. Bằng cuộc sống xác tín vào sức mạnh của Tin mừng, chúng tôi n lực sống “đạo tình thương để hương thơm tốt lành của Tin mừng tình yêu của Chúa có thể lan toả đến anh chị em đồng bào Việt Nam yêu quý của chúng tôi.
 
– Cuối cùng: Đức hồng y hy vọng gì nơi Thượng hội đồng giám mục trong tháng Mười sắp tới?
 
– “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì không phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời (Ga 3,16). Theo gương của Chúa Giêsu, giáo huấn của Giáo hội, cụ thể trong Thông điệp “Đấng Cứu chuộc con người(Redemptor Hominis) của Đức Thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II cho chúng ta thấy mọi suy nghĩ, quyết định của Giáo hội luôn nhắm đến sự sống và hạnh phúc của con người; vì “con người là con đường của Giáo hội”, bởi lẽ tất cả mọi con đường của Giáo hội đều dẫn đến con người (Redemptor Hominis, 14). Như vậy, tôi tin là Thượng Hội đồng Giám mục thế giới vào tháng 10 tới đây sẽ đem đến niềm vui, bình an và hạnh phúc cho Giáo hội, cách riêng cho các gia đình.  

.

Hung hãn và hèn nhát





Xã hội Việt Nam đang rất sôi động. Một sức sống như đang bừng bừng trẻ trung với bề ngoài của nó. Hào nhoáng. Chộn rộn. Mỗi ngày, khi trên báo chí hay truyền hình ra một đề bài lá cải, khắp nơi nhộn nhịp tham gia bàn tán như các cô cậu học sinh mùa thi được thử thách tâm sinh lý. Ở các ngã tư đường, các quán nhậu, các diễn đàn facebook… đâu đâu người ta cũng bàn tán về đề thời sự mới nhất. Một ông già hom hem ngấu nghiến hôn cô gái trẻ được báo chí ghi lại, lập tức trở thành quốc sự. Nền dân chủ lý sự tầm ruồng phất cao ngọn cờ ngời sáng với 2 phe: một bên thì đập ngực đem tất cả vốn liếng đạo đức để chỉ trích, một bên thì chống nạnh, viện dẫn mọi tư duy cấp tiến để nói rằng đó là chuyện bình thường, thậm chí đáng yêu.

Quốc sự về nụ hôn của một cụ già trỗi máu xuân tình dĩ nhiên không quên bàn về nước dãi của cụ còn để lại trên gò má căng phính lông tơ của cô gái trẻ. Quốc sự về hình ảnh đó cũng có đủ mọi lời bảo vệ bằng cách đưa ảnh một vị lãnh tụ khác cũng hay hôn phụ nữ, đàn ông và trẻ con như một truyền thống đáng noi theo. Dĩ nhiên, khi đã tranh luận, mỗi phe càng nói càng hăng. Ngôn ngữ mỗi lúc một mạnh bạo, thậm chí rất hung hãn.

Sự hung hãn của một nền dân chủ xã hội đầy sôi động đó cũng được mô tả bằng bản tin hơn 5000 người Việt đánh nhau đến nhập viện trong một mùa xuân cầu mong yên lành. Sự hung hãn được chỉ định bằng việc giết heo trong lễ hội theo lối yêu trảm (chém ngang lưng) du nhập từ đời nhà Tần phương Bắc sang Việt Nam. Sự hung hãn được xác nhận như phần cần thiết của lễ hội mua thần bán thánh, từ miệng của một quan chức cấp cao, phó chủ tịch Uỷ ban Nhân Dân Sóc Sơn “Lễ hội không tổ chức phát lộc cho người dân nên ai muốn có phải cướp. Xô xát là bình thường”. Loại câu nói đủ biết hạng người nào, tri thức kiểu gì đang đứng trên đầu dân chúng.

Một khi chuyện hôn hít của một ông già, chuyện đánh nhau vỡ đầu giành lộc, chuyện hung hãn đánh nhau giữa đường rồi cùng nhập viện… nay đã trở thành quốc sự hạng một, chiếm lĩnh mọi sự quan tâm của quốc dân, thì đó cũng là một chỉ dấu của con đường đến mạt vận. 

Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong những chuyện tự do ngôn luận dân chủ tầm ruồng, bỏ quên hay tránh né về những điều nguy ngập khác, rằng Trung Cộng đã dựng xong sân bay, pháo đài… trên biển, có thể đánh chiếm Sài Gòn trong 24 giờ. Thế nhưng tướng quân đội Việt Nam thì tâm tư tha thiết kêu gọi dân chúng không nên ghét bỏ kẻ đang lăm lăm cướp – giết tổ quốc mình. 

Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong cách dùng mọi học thuật để chứng minh đối phương đồi bại hay tiến bộ trong những điều chỉ đáng liếc qua và lãng quên, nhưng giỏi cười qua loa với chuyện các dự án bauxite thua lỗ trầm trọng mà vẫn phải tiếp tục, ngày đêm giao nộp sang biên giới,  giỏi giả lơ khi giá xăng được tuyên hô sẽ lên giá không cần lý do, khi dầu thế giới chỉ có giá 50 USD/ thùng – mức giá thấp nhất từ trước đến nay.

Người Việt hôm nay dường như đủ hung hãn chém con heo ra nhiều mảnh, reo hò và tắm máu như thời các bộ lạc dã man, nhưng hèn nhát câm miệng không dám bàn về tài sản các quan chức tham nhũng đang đục ruỗng tổ quốc mình. Người ta im lặng hèn nhát khi nghe những kẻ như Trần Văn Truyền chỉ bị kỷ luật giơ cao đánh khẽ, còn những người tố cáo cái ác như ông Kim Quốc Hoa, báo Người Cao Tuổi, đang lao đao giữa trùng vây vô lại.

Cái cần phải hung hãn, thì người ta đang chọn cách hèn nhát. Cái cần phải hèn đi thì người ta ồ ạt xông lên: hung hãn giành giật thức ăn buffet, hung hãn trói đánh kẻ trộm chó, hung hãn phán xét, nguyền rủa chung quanh như bản thân mình là hiện thân của ngọn cờ đầu nhân nghĩa.

Hung hãn và hèn nhát, hai mặt đối lập của số đông trong một nước, cho thấy sự sục sôi của chủ nghĩa duy lợi đang lây lan như một loại virus trọng bệnh, mà tỷ lệ nghịch với làn sóng đó, là sức sống còn cho một quốc gia.

~~~~~~~~


Tham khảo thêm:



Tuấn Khanh's Blog




 dv

2/27/2015

"Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Chấm dứt tư duy "tôi có quyền""

nmvn cho đăng nguyên bài phỏng vấn Bùi Quang Vinh của của phóng viên tờ Thông Tin Điện Tử của nhà nước CSVN để quý bạn nhận xét. Nmvn cũng đưa ra vài nhận xét về cái tật "hay nói và nói hay nhưng nói sai và không thực hiện điều đã nói" của CSVN.

1. CSVN không phải là một "nhà nước pháp quyền" mà là nhà nước "đảng quyền". Đảng chế ra luật và đổi luật hay giải thích luật bất cứ lúc nào đảng muốn.

2. CSVN bây giờ cho rằng "chăm lo cho người yếu thế, người nghèo" là một "tư tuỏng rất lớn", tạo ra "bức chuyển lớn trong nhận thức" .....nhưng còn rất nhiều việc phải làm". Chúng ta tưởng XHCN thì việc lo cho người yếu thế, người nghèo ĐÃ LÀ MỤC TIÊU và HÀNH ĐỘNG TỪ 1945 rồi chứ đâu phải đợi đến năm 2015.

3. Cứ tạm cho là BQV bắt đầu "sửa sai" và bắt đầu lo cho dân nghèo, yếu thế cũng đáng khích lệ đi, nhưng BQV lại đưa ra một đề nghị thay đổi, đó là tỉ lệ vốn đầu tư vào kinh tế vào Doanh nghiệp nhà nước phải it hơn của Doanh nghiệp tư nhân. Đề nghị này chắc chắn là không được đảng chấp thuận vì như thế cái định nghĩa của nền kinh tế CS sẽ là "Kinh tế tập trung định hướng thị trường"  mất rồi. Và nếu là như vậy thì sự "rút tiền" từ công ty quốc doanh sang công ty tư nhân sẽ bị giảm đi rất nhiều. Đảng viên sẽ bớt cơ hội làm giầu.

4. BQV muốn từ đảng chuyển từ "tư duy quản lý sang tư duy phục vụ" người dân và công ty làm ăn của người dân vì người dân đóng thuế. Làm cách nào để đổi cái quan niệm và chính sách cố hữu "chủ nhân là làm chủ" này của nhà nước và của đảng này? CSVN có bao giờ là "đày tớ của nhân dân đâu". BQV đưa ra một đề nghị không thể thực hiện được trong một chế độ đảng độc quyền.

5. BQV cho rằng động lực phát triền đất nước trong những năm qua là lao động rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên và tăng vốn đầu tư. BQV quên một yếu tố rất quan trọng, đó là 90 tỉ dollars tiếp máu của người Việt "tị nạn CS" từ nước ngoài gửi về.

6. BQV cho rằng cần cải tổ về khoa học, kỹ thuật, sản xuất,..... Nmvn đề nghị là cả nước Việt Nam hay tập trung chế tạo được những "con ốc chính xác, những bạc đạn (bearing) hoàn hảo" trước đã.

ngaymaivietnam


Sau đây là bài phỏng vấn với tựa đề của báo điện tử này đưa ra:


"Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Chấm dứt tư duy "tôi có quyền""



Chinhphu.vn) - Doanh nghiệp (DN) và người dân là người đóng thuế, vì vậy, bộ máy Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi nhất, làm họ hài lòng nhất.

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh. Ảnh: VGP/Huy Thắng
Đây là quan điểm mà Bộ trưởng Bùi Quang Vinh khẳng định khi chia sẻ với PV Cổng TTĐT Chính phủ.
 
Thưa Bộ trưởng, cách đây 1 năm, ông có nói điều trăn trở nhất của mình là cải cách thể chế kinh tế. Cảm xúc của Bộ trưởng tại thời điểm này là như thế nào?
 
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Tôi cho rằng cái được lớn nhất sau 1 năm là việc đã tạo được sự đồng thuận nhiều hơn trong xã hội, trong Đảng, Chính phủ và Quốc hội về nhu cầu cần phải đổi mới thể chế kinh tế tại Việt Nam. Trong đó, thống nhất những tư tưởng lớn là phải sử dụng công cụ thị trường để phân bổ nguồn lực, kể cả giáo dục, y tế, các lĩnh vực công… Còn Nhà nước pháp quyền XHCN sẽ dùng nguồn lực của mình để chăm lo cho người yếu thế, người nghèo được hưởng các dịch vụ về an sinh xã hội. Đây là tư tưởng rất lớn, tạo ra bước chuyển lớn trong nhận thức. Nhưng chúng ta phải thừa nhận vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
 
Dù nhất quán về tư tưởng lớn nhưng khi đi vào hành động cụ thể, ví dụ khi thị trường hóa dịch vụ công, như lĩnh vực y tế, giáo dục, thì lại có quan điểm khác nhau. Về cổ phần hóa DNNN, tôi cho rằng số lượng không quan trọng bằng chất lượng. Vấn đề là cần thay đổi cơ cấu quản trị của DN đó theo hướng hiệu quả hơn. Muốn vậy, tỷ lệ cổ phần hóa của tư nhân tham gia phải lớn hơn tỷ lệ giữ cổ phần của Nhà nước trong DN. DN tư nhân phải trở thành động lực phát triển quan trọng nhất của nền kinh tế đất nước.
 
Chúng ta cần hỗ trợ nhiều hơn nữa cho khối DN tư nhân phát triển. Cụ thể như tăng cường tính công bằng, minh bạch trong đầu tư; khuyến khích hoạt động ươm tạo tài năng, ý tưởng mới; hỗ trợ thị trường, cung cấp thông tin cho DN tư nhân về những thách thức khi môi trường hội nhập, cạnh tranh.
Còn đối với DN nước ngoài, chúng ta chỉ kêu gọi những tập đoàn lớn, sở hữu công nghệ nguồn cao và những sản phẩm cạnh tranh trên thị trường quốc tế để tạo động lực cho phát triển kinh tế Việt Nam. Các hoạt động thanh tra kiểm tra nghiêm túc là rất cần thiết, nhưng phải siết chặt để tránh lợi dụng việc này để gây khó khăn cho DN.
 
Năm 2015 nhiều luật cơ bản như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư đã được ban hành, từng bước đi vào cuộc sống. Bộ trưởng có quan ngại về việc sẽ có tình trạng quy định thì tốt nhưng DN chỉ được hưởng lợi một phần hoặc lại bị thắt chặt lại bằng cách nào đó?
 
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Trước hết, về 2 Luật này, tôi cho rằng có những tư tưởng rất thông thoáng và xuyên suốt là cố gắng minh bạch nhất, rõ ràng nhất và giúp cho người dân, DN được thực hiện quyền của mình- quyền được đầu tư, kinh doanh tất cả những lĩnh vực ngành nghề mà luật pháp không cấm. Mục tiêu cuối cùng là DN khi tham gia vào thị trường với chi phí rẻ nhất… Nhưng đúng là có tình trạng một số luật khi xây dựng thì tư tưởng cởi mở thông thoáng nhưng những văn bản hướng dẫn như Thông tư, văn bản hướng dẫn thấp hơn… lại siết chặt, thậm chí đi ngược lại. Đó là vấn đề giám sát thực hiện, đảm bảo tính nhất quán, xuyên suốt.
 
Có trường hợp người thực thi không có cái tâm mà triển khai hoặc vì lợi ích riêng mà lợi dụng kẽ hở để làm khó DN, đặt ra nhiều điều kiện mới.
 
Vì vậy, cần phải chấm dứt tư duy làm quản lý là tôi có quyền quản anh và tôi có quyền yêu cầu anh mọi điều. Phải chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy làm phục vụ vì DN và người dân là người đóng thuế. Bộ máy quản lý có trách nhiệm phải tạo điều kiện thuận lợi nhất, làm họ hài lòng nhất.
 
Gần đây, Bộ trưởng có nói đến bối cảnh của năm 2015 với nhiều lo lắng mà Việt Nam sẽ phải đối mặt- đó là sự tới hạn của các động lực tăng trưởng?
 
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Trong hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã có những thành tựu nhất định, nhưng phải thừa nhận rằng động lực để tăng trưởng, phát triển đất nước trong những năm qua chủ yếu theo chiều rộng tức là dựa vào tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ, tăng vốn đầu tư. Đến nay vẫn cần phải dùng các yếu tố đó để cạnh tranh nhưng những động lực này không còn nhiều dư địa. Thời gian tới, cần phải có động lực mới là dựa vào tiến bộ khoa học, kỹ thuật, trong khi đây là điểm Việt Nam rất yếu. Ngoài ra, năng suất lao động cũng cần phải cải thiện rất nhiều.
 
Để có những động lực mới, Việt Nam cần đổi mới thể chế kinh tế tạo điều kiện cho các DN phát triển, tạo điều kiện để các nhà khoa học sống bằng những sản phẩm gắn với đời sống thực tiễn, giải đáp những vướng mắc trong sản xuất, tạo ra sản phẩm mới với một chi phí thấp và chất xám cao hơn.
Đó là điều chúng ta cần hiện nay, nhưng Việt Nam hiện không có nhiều sản phẩm như vậy. Tôi cho rằng từ chuyên gia kinh tế đến người bình thường đều hiểu được điều này. Trách nhiệm của Chính phủ là làm thế nào để tạo môi trường và thúc đẩy những nhân tố này.
 
Kể từ ngày 1/1/2015, Luật Đầu tư công đã chính thức có hiệu lực, đây là một trong những luật được dư luận đặc biệt quan tâm. Vậy theo ông, đâu là những yếu tố quan trọng giúp cho Luật có thể phát huy tính hiệu quả?
 
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tích cực để hoàn thành 5 Nghị định hướng dẫn để trình Chính phủ trong thời gian sớm nhất. Trong Luật mới này, quy mô của nhóm dự án loại A phải có chủ trương từ cấp Trung ương, phải có phân tích về hiệu quả kinh tế, xã hội. Đặc biệt, cần quyết liệt rà soát, xem xét kỹ lưỡng các dự án đầu tư công trước khi quyết định đầu tư.
Đồng thời, phải làm tốt kế hoạch đầu tư trung hạn bởi vấn đề cốt lõi trong Luật Đầu tư công là chuyển từ ngắn hạn sang trung và dài hạn, trước hết là giai đoạn 2016 -2020. Đây là vấn đề mới đối với các bộ ngành, địa phương nên sẽ có những vướng mắc, rào cản nhưng phải nhất quán tinh thần “mỗi đồng vốn đầu tư công phải được quản lý tốt, chặt chẽ”, bởi vì chúng ta cần nhiều vốn để phát triển đất nước.
 
Để làm tốt điều này trước hết là nhận thức của các bộ ngành, địa phương phải cùng đồng tình thực hiện, đồng thời vừa làm vừa phải khẩn trương rút kinh nghiệm hoàn thiện các khung pháp lý. Dù trong thời kỳ đầu thì còn có khó khăn, nhưng khi đã vào “đường ray” rồi thì nó sẽ tiếp tục tiến lên phía trước.
 
Huy Thắng (thực hiện)

Bốn nguyên tắc hòa bình và an ninh tại biển Đông

Bốn nguyên tắc Diễn Đoàn Toàn Cầu Boston đề nghị để giải quyết vấn đề biển Đông Việt Nam không có gì mới. Nhưng làm cách nào để mọi phía, mọi nước mạnh và yếu ngồi lại đàm phán? Nhưng làm cách nào để Trung cộng ngồi xuống đàm phán với Việt Nam khi họ đã xây cất phi trường, cơ sở quân sự trên nhiều đảo khu Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam mà CSVN vẫn không dám lên tiếng? Trung cộng nó đâu có ngu, đã được ăn rồi, tại sao phải nhả ra.

nmvn

 

Bốn nguyên tắc hòa bình và an ninh tại biển Đông

Nhóm cố vấn Diễn đàn Toàn cầu Boston (BGF) mới đây đã đề xuất các giải pháp then chốt đối với hòa bình và an ninh trong khu vực Thái Bình Dương.


Trong báo cáo mới đây, các cố vấn của BGF, trong đó có cựu ứng cử viên Tổng thống Mỹ Michael S. Dukakis và ‘cha đẻ thuyết quyền lực mềm’ Joseph Nye, nhận định rằng hải quân Trung Quốc đã có sự chuyển hướng từ tiềm lực phòng thủ ven biển sang hoạt động tại các vùng biển lớn.

biển đông, diễn đàn, Boston, an ninh
Việc Trung Quốc tăng cường hiện diện và tiềm lực quân sự tại các vùng biển Đông và Hoa Đông nhằm củng cố những tuyên bố chủ quyền của nước này, đã khiến cho khu vực Đông Á có nguy cơ rơi vào chạy đua và xung đột vũ trang.

Mặc dù các chuyên gia cho rằng, cán cân sức mạnh trên biển tại Thái Bình Dương lúc này đang nghiêng về phía Mỹ, nhưng vũ lực không thể được coi là phương tiện trước hết để giải quyết xung đột.

Theo đề xuất của BGF, trước tiên, xung đột cần được giải quyết bằng luật pháp quốc tế. Thứ hai, các quốc gia có liên quan cần có sự tôn trọng chung khi ngồi tại bàn đàm phán.

Nguyên tắc thứ ba là các bên cần tìm cách thúc đẩy sự tương thuộc trong khu vực vì các quốc gia có quan hệ đầu tư và thương mại mạnh mẽ ít khi phải viện tới vũ khí để giải quyết xung đột.

Nguyên tắc thứ tư là việc đa phương, đa dạng hóa. Theo đó, việc đàm phán cần có sự hiện diện của tất cả các bên chịu tác động bởi vấn đề hòa bình và an ninh tại Thái Bình Dương không thể thực thi được chỉ bởi một hay một vài quốc gia đơn lẻ.

Ngoài các đề xuất về nguyên tắc này, BGF cũng có những gợi ý về chính sách cụ thể thúc đẩy hòa bình và an ninh tại Thái Bình Dương.

Lê Thu
Debug: ADS tracking link http://vietnamnet.vn/quoc-te
Ba Điều Kỳ Diệu


40 Năm Tị Nạn
Phát biểu tại hội Tết của cộng đồng Việt ở Richmond, Virginia

Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 27 tháng 2, 2015
 

Thưa quý vị trưởng thượng, quý vị đại diện các hội đoàn và quý vị trong ban tổ chức,
Không khí rộn rã của chương trình đón Tết của ở thành phố Richmond này làm tôi rất cảm động. Tôi rất vui khi thấy những tà áo dài thật đẹp, khi gặp những đồng bào thân thương thuộc nhiều thế hệ. Trong sự xúc cảm ấy, tôi muốn chia sẻ với quý vị 3 điều mà tôi cho là kỳ diệu.
Điều kỳ diệu thứ nhất là sự trưởng thành vượt bực của tập thể những người Việt ly hương.
Thành phố này cách đây 40 năm không có bóng dáng người Việt. Vậy mà giờ đây chúng ta là một cộng đồng tràn đầy nhựa sống, góp phần sinh động cho xã hội Hoa Kỳ. Người đi trước dắt díu người đi sau. Thế hệ trước chuẩn bị cho thế hệ kế tiếp. Trong căn phòng này biết bao những người trẻ là chuyên gia, doanh gia thành đạt trong xã hội dòng chính nhưng ở đây vẫn là người con của cộng đồng, của Mẹ Việt Nam.


Trong những thập niên đầu thế kỷ trước các cụ trong phong trào Đông Du gửi được vài chục người đi Nhật với giấc mơ đầu tư cho tương lai của dân tộc; có nằm mơ họ cũng không dám nghĩ rằng một ngày nào có trên 4 triệu con dân Việt ở khắp thế giới tự do, hấp thụ những tinh hoa của nhân loại. Dân tộc Việt Nam không còn bị giới hạn trên giải đất hình cong chữ S mà nay đã rải ra khắp thế giới.
Chính những cố gắng của từng cá nhân, từng gia đình kí cóp xây dựng cuộc sống từ thuở ban đầu bỡ ngỡ cho một đời sống ổn định, một cơ nghiệp vững chãi đã góp phần tạo nên cộng đồng đầy năng lực và sức sống. Giờ đây ở những xã hội dân chủ, tự do, nhân bản, phú cường nhất trên trái đất này đều có cộng đồng người Việt vì những nơi ấy đã đón nhận người tị nạn chúng ta. Trong chớp mắt của lịch sử, những cộng đồng Việt tị nạn đã lớn nhanh như thổi, y như trong truyền thuyết Thánh Gióng.
Đấy là điều kỳ diệu trong hiện tại, chưa hề có trong gần 5 nghìn năm lịch sử của giống nòi.
Điều kỳ diệu thứ hai nằm ở quá khứ gần đây thôi. Đó là Việt Nam Cộng Hoà.
Mới vừa thoát khỏi thân phận thuộc địa, người dân miền Nam vừa phải xây dựng đất nước, vừa cưu mang cả triệu người di cư từ miền Bắc, vừa cầm cự với giặc Tàu xâm lược và cả thế lực quốc tế cộng sản trong khi mình chỉ có nửa nước, nửa dân số và thiếu thốn mọi đằng. Ấy vậy mà trong 21 năm ngắn ngủi, thời gian chỉ vừa đạt tuổi trưởng thành cho một đời người, người dân Việt Nam Cộng Hoà đã xây dựng nên một quân đội hùng mạnh; một nền văn học nghệ thuật phong phú về thi ca, âm nhạc, hội hoạ, nhiếp ảnh, điêu khắc…; một nền giáo dục khai phóng và nhân bản; và rồi y tế, xã hội, báo chí… mà 40 năm sau chế độ cộng sản vẫn không bắt kịp.
Nhân loại có mấy dân tộc làm được điều ấy? Mỗi lần nghĩ đến tôi lại rùng mình cảm phục. Đấy không phải là điều kỳ diệu sao?
Và điều kỳ diệu thứ ba rất đặc biệt vì nó chưa xẩy ra. Nhưng sẽ xảy ra nếu chúng ta biết gom sức mình, những công dân của thế giới tự do, để tạo cho dân tộc Việt Nam một vận hội mới.
Thủa xa xưa chúng ta là Bách Việt. Các bộ tộc Việt sống quây quần và che chở cho nhau mỗi khi gặp nạn, cho đến một ngày giặc phương Bắc tràn xuống như vũ bão, khuất phục và đồng hoá tất cả, chỉ Lạc Việt chạy thoát được xuống phương Nam. Cả mấy nghìn năm sau đó, Lạc Việt phải một mình miệt mài đối phó với giặc Tàu.
Nay chính chúng ta, người Việt ở khắp thế giới tự do, có đầy đủ năng lực để biến mình thành Bách Việt thời đại mới. Cộng đồng Việt ở Mỹ chính là Mỹ-Việt, và ngay tại đây lại có nhánh Richmond-Việt. Và nào là Pháp-Việt, Canada-Việt, Nhật-Việt, Đức-Việt, Anh-Việt, Bỉ-Việt, Úc-Việt, Hàn-Việt…
Bách Việt của thế kỷ 21 sẽ mạnh gấp nghìn lần khi xưa vì tựa lưng vào các quốc gia phú cường và văn minh nhất hành tinh. Bách Việt mới sẽ giải nguy cho Lạc Việt, đem ánh sáng tự do đến cho đồng bào, phát triển đất nước nên cường thịnh và đẩy lùi vĩnh viễn hoạ Bắc xâm. Đấy sẽ là điều kỳ diệu thứ ba.
Để tạo vận hội mới cho dân tộc, xin quý vị hãy cùng đồng hành với chúng tôi trong 3 ngày 18-20 tháng 6 này ở Hoa Thịnh Đốn, với một tâm nguyện chung: “Hành trình đến tự do của chúng ta” sẽ mở đường cho hành trình đến tự do cho cả dân tộc.
 
Hòa hợp mồi Đầu tư - Hòa giải cuỗm Kiều hối

 
Chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc sau 40 năm còn ngổn ngang trăm mối tơ vò lại rối ren thêm vào dịp Tết qua phát ngôn thiếu xây dựng và không đúng sự thật của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc và báo Quân đội Nhân dân.
 
Trước hết hãy bàn về Bài viết “Suy ngẫm đầu Xuân” của ông Sang đăng trên Tạp chí Quê Hương Online, Cơ quan ngôn luận của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, phổ biến đúng ngày Mồng một Tết (19/02/2015).

Ông viết: “Trong thời kỳ Đổi mới, đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhiều nước gỡ bỏ hàng rào cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam; nhiều kiều bào trở thành cầu nối gắn kết, dẫn dắt các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. Với tấm lòng đau đáu vì sự phát triển của nước nhà, nhiều kiều bào trực tiếp về nước làm chuyên gia tư vấn, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đầu tư công sức và tiền của để sản xuất kinh doanh, thành lập các công ty xuất nhập khẩu hàng hóa...”
 
Hoàn toàn sai với trường hợp của Mỹ. Hàng rào cấm vận Việt Nam từ 1975 đến 1994 do Hoa Kỳ chủ động và lãnh đạo nhằm cấm các nước có quan hệ với Mỹ giúp Việt Nam. Các Tổ chức quốc tế chịu ảnh hưởng lớn của Hoa Thịnh Đốn, tiêu biểu như Quỹ tiền tệ Quốc tế (International Money Fund, IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank) cũng bị chi phối.
 
Lệnh cấm vận của Mỹ nhằm 2 mục đích chính: trừng phạt Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã xé bỏ Hiệp định Paris 1973, dùng võ lực đánh chiếm Việt Nam Cộng hòa, đồng minh của Mỹ. Thứ hai là chống cuộc xâm lăng chiếm đóng Campuchia 1978 -1992 của quân đội CSVN.
 
Theo tài liệu chính thức, đến năm 1993, Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm các nước khác cho Việt Nam vay tiền trả nợ cho các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai quốc gia. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
 
Như vậy, điều mà ông Chủ tịch Trương Tấn Sang bảo là đồng bào ta ở nước ngoài tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vận động nhiều nước gỡ bỏ hàng rào cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam”, trong trường hợp nước Mỹ là không có cơ sở. Bởi vì vào thời gian từ 1975 đến 1995, hoạt động của nhóm thiểu số được gọi là “người Việt yêu nước” thân Hà Nội ở Hoa Kỳ chỉ đếm trên đầu ngón tay và không có bất cứ khả năng vận động nào với Chính quyền Mỹ về chuyện bỏ cấm vận.
 
Có chăng là cuộc vận động tích cực của một số các Nhà lập pháp Mỹ cựu chiến binh Việt Nam, trong số có hai Nghị sĩ John McCain và John Kerry để đổi lấy hợp tác của Chính phủ Việt Nam trong công tác tìm kiếm quân nhân Mỹ còn mất tích tại 3 chiến trường Việt Nam, Lào và Campuchia.
 
Ông Sang khoe nhiều kiều bào trực tiếp về nước làm chuyên gia tư vấn, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học”, nhưng số này không quá 200 người đi về qua nhiều giai đoạn từ khi có Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Phần lớn người về giúp Việt Nam thuộc các tổ chức viện trợ Quốc tế hay giáo dục của các trường Đại học.
 
Ông Sang còn biểu dương: Kiều hối không ngừng tăng, trở thành một trong những nguồn ngoại lực quan trọng đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Có thể khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã thực sự góp phần không nhỏ vào thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự vươn lên bắt nhịp mạnh mẽ của Việt Nam với khu vực và thế giới những năm qua.”
 
Sở dĩ người Việt ở nước ngoài gửi nhiều tiền về Việt Nam vì Nhà nước không đánh thuế trên khoản tiền này, đồng thời giúp thân nhân có thể đầu tư vào ba ngành: dịch vụ, địa ốc và du lịch, hoặc gửi vào ngân hàng để lấy lời.
 
Nhưng nếu ông Sang cho rằng: “Những đóng góp đáng trân trọng và đầy tự hào đó của kiều bào ta đối với Tổ quốc xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn của mỗi người dân đất Việt, kết tinh trong truyền thống quý báu hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam từ thuở Vua Hùng lập nước” thì đó là một ngộ nhận không phản ảnh trung thực mục đích giúp gia đình có cuộc sống khá hơn là chính.
 
Bởi vì “yêu nước” hay hướng về quê cha đất tổ luôn luôn là định hướng không bao giờ phai nhạt, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Nhưng nếu coi hành động mỗi năm có hàng ngàn người Việt về thăm quê hương, dòng tộc, thăm mồ mả tổ tiên cũng đồng nghĩa với “yêu xã hội chủ nghĩa” hay chấp nhận đảng CSVN là một ý nghĩ cường điệu và sai lầm.
 
Đầu tư và kiếu hối
 
Theo thống kê của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, hiện có 51/63 tỉnh, thành phố trong nước có các dự án đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài, với hơn 3,600 doanh nghiệp kiều bào với tổng số vốn đầu tư lên tới 8,6 tỉ USD.
 
Con số 8,6 tỉ USD không nhỏ, gần bằng một nửa nguồn vốn doanh nghiệp FDI (Foreign Direct Invesment, Đầu tư trực tiếp từ Nước Ngoài) vào Việt Nam năm 2014. (theo báo Giáo Dục Việt Nam, 19/02/2015).
 
Trong khi đó, số Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm, Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD. (theo Đài Tiếng nói Việt Nam, VOV ngày 20/09/2014).
 
Theo báo Giáo dục Việt Nam thì khoản Kiếu hối lớn lao này đã “bù đắp được 92% chênh lệch cán cân thương mại. Trong năm 2012, dù tình hình kinh tế thế giới lẫn trong nước nhiều khó khăn nhưng lượng kiều hối vẫn có sự bứt phá, chạm mốc 11 tỷ USD. Hiện Việt Nam nằm trong số 10 nước nhận kiều hối hàng đầu thế giới.”
 
Các chuyên gia tài chính ở Việt Nam ước tính từ năm 1991 đến năm 2014, tổng số tiền 90 tỷ USD đã được người Việt ở nước ngoài gửi về Việt Nam, chiếm 1/3 tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
 
Phần lớn số tiền này do khối người Việt từ miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) ra đi từ năm 1975 đang định cư ở các quốc gia có nền công nghệ và giáo dục cao như Mỹ, Châu Âu, Canada và Úc Đại Lợi. Số còn lại là của khoảng 500,000 lao động Việt Nam được Nhà nước gửi ra nước ngoài làm việc, nhiều nhất tại Nam Hàn và Đài Loan.
 
Nhưng ở Việt Nam doanh nhân Việt kiều không có các dự án kinh tế lớn, đáp ứng nhu cầu tốt, mang lại lợi nhuận cao vì nhiều địa phương đã dành các địa bàn thuận lợi, lưu thông tốt, gần thành phố, các ngành dễ kiếm tiền cho các doanh nghiệp trong nước và của nhà nước.
 
Vì vậy nhiều doanh nhân Việt kiều không muốn “mang tiền đi đổ sông Ngô” vì nhà nước CSVN vẫn dành nhiều ưu đãi cho các nhóm lợi ích trong đảng.
 
Ngoài ra thủ tục hành chính rườm rà lại hay thay đổi, áp dụng tùy tiện, cán bộ coi Việt kiều như những con mòng béo mập nên làm gì cũng phái nạp tiền “bôi trơn” hay “phong bì” thì mới xong khiến doanh nhân nản chí.
 
Báo Giáo dục Việt Nam, GDVN (19/02/2015) phản ảnh: “Ông Phạm Văn Thắng - một Việt kiều Đức trở về đầu tư trong nước 12 năm cho rằng Việt Nam có nhiều lợi thế thu hút đầu tư vào lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là dịch vụ, du lịch. Các cơ chế đầu tư ở Việt Nam khá thông thoáng, chi phí sinh hoạt rẻ, công nhân Việt Nam khéo tay, có năng suất lao động cao, với những người được đào tạo, không kém các nước khác.

Những khó khăn của doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài khi đầu tư vào trong nước chủ yếu liên quan đến chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục hành chính, chính sách cần có định hướng lâu dài bền vững... Chính vì gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong vấn đề thủ tục hành chính, những công nghệ ông Thắng đưa về Việt Nam không được lắng nghe áp dụng vì vậy doanh nhân này đang tính đường quay trở lại Đức để kinh doanh.”
 
Trong một bài viết đăng trên báo GDVN ngày 24/02/2015, ông Thắng thổ lộ: “Cách đây 12 năm khi trở về Việt Nam đầu tư, tôi ấp ủ nhiều dự định triển khai các công trình về công nghệ. Trong đó có công nghệ gia cố đất làm đường bằng phụ gia của Đức, công nghệ làm sạch, công nghệ làm vật liệu không nung của Đức... nhưng tất cả đều thất bại.
 
Thất bại vì nhiều lý do, trước hết phải khẳng định chính sách của Đảng và Nhà nước rất khuyến khích, rất mở. Tuy nhiên cơ chế tổ chức vận hành của toàn bộ cơ sở hạ tầng này vẫn ì ạch, trì trệ, không đáp ứng được với những yêu cầu của những doanh nhân Việt kiều. Chúng tôi quen cách làm việc hiện đại thông thoáng của những nước tiên tiến...
 
“...Cũng là kinh doanh nhưng bên kia không phải động tác phong bì... còn bên mình thì doanh nghiệp phải lo quá nhiều cái, mà không thế không được... Về đầu tư, văn bản pháp luật, chính sách thay đổi liên tục doanh nghiệp khó chạy theo, muốn làm cũng khó.
 
Tuy nhiên khi khoe khoang quá lố công lao của đảng trong công tác Việt kiều, ông Sang đã sai lầm khi nói rằng: “Để có được những thành công đó, chúng ta tự hào có Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn quan tâm tới bộ phận máu thịt không thể tách rời là 4,5 triệu người con Việt Nam ở bốn phương trên khắp địa cầu. Vai trò và vị trí của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn được ưu tiên trong chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài đã được cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương tích cực triển khai nhằm mục đích tạo thuận lợi nhiều nhất cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”
 
“Ưu tiên”, “quan tâm” và “tạo thuận lợi” cho Kiều bào ra sao thì ông Sang hãy đọc những lời trăn trở để rút khỏi Việt Nam của thương gia Phạm Văn Thắng.
 
Ông Sang cũng cần nhìn ra sự thất bại của Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài, sau 10 năm thi hành Nghị quyết 36, đã không sao lôi kéo được thế hệ Việt kiều thứ hai ra đi sau 1975 mà cả với thế hệ thứ ba và thứ bốn sinh ra ở nước ngoài cũng không ai muốn về nước sống chung với chế độ Cộng sản còn tiếp tục tước đoạt các quyền tự do cơ bản của người dân.
 
Do đó, ông Chủ tịch nước cũng không nên hờn giỗi nói rằng: “Mỗi dịp Xuân về, người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về quê hương, thắp nén hương cho ông bà tổ tiên, thăm lại nơi chôn rau cắt rốn. Đó là truyền thống, đạo lý quý báu của ông cha ta truyền lại qua ngàn đời, được cả dân tộc gìn giữ và nâng niu. Nhưng chúng ta không khỏi chạnh lòng khi hàng chục triệu lượt kiều bào đã trở về thăm Tổ quốc, thì vẫn còn một bộ phận nhỏ chưa một lần về lại quê cha đất Tổ kể từ khi cất bước ra đi. Họ vẫn còn định kiến, mặc cảm của quá khứ. Họ có hiểu chăng đất mẹ luôn mở rộng vòng tay nhân ái cho mọi người con trở về trong đùm bọc và yêu thương. Tôi mong rằng sẽ sớm có một ngày 4,5 triệu người Việt Nam nước ngoài đồng lòng như một, hướng về Tổ quốc, chung tay góp sức làm rạng rỡ cho non sông gấm vóc Việt Nam.”
 
Ông Sang bảo chỉ “còn một bộ phận nhỏ” trong số 4.5 triệu Kiều bào không muốn thân thiện với nhà nước và đảng CSVN thì hoặc ông đã bị cấp dưới nịnh hót báo cáo sai, hay ông đã không dám nhìn vào sự thật để thất vọng thấy rằng nếu có một cuộc trưng cầu ý kiến thì sẽ thấy số người Việt ở nước ngoài muốn về Việt Nam sinh sống không có bao nhiêu vì có ai dại để đánh mất tự do bao giờ?
 
Lý luận Dương Trung Quốc
 
Bài viết thứ hai cần bàn tới là của Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Ông Dương Trung Quốc, quê quán xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, sinh năm 1947 và lớn lên tại Hà Nội.
 
Ông không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng được đảng chọn là Đại biểu Quốc hội của Tỉnh Đồng Nai từ các khóa XI, XII và XIII. Ông cũng là một trong số rất hiếm người đã có những phát biểu thẳng thắn trong các kỳ họp quốc hội.
 
Ông còn là một trong số 2 Đại biểu Quốc hội “không bấm nút chấp thuận bản Hiến pháp sửa đổi 1992 sáng ngày 28/11/2013”, với lý do ông đứng về phía những người dân “có ý kiến khác”, nhất là việc Quốc hội đã “luật hóa” Cương lĩnh của Đảng gọi là “Xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa”.
 
Với tiêu đề “Hòa hợp dân tộc là quy tụ được nhân tâm” đăng trên báo Lao Động điện tử, Cơ quan của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, ngày 19/02/2015 (Mồng Một Tết), ông Quốc viết: “Hiệp định Genève (20/07/1954) được ký kết tạm thời chia cắt đất nước, nhưng rồi sự tạm thời ấy không thể giải quyết vấn đề thì chúng ta lại phải tiếp tục sự nghiệp chiến đấu, ngay cả khi Mỹ can thiệp vào, chúng ta phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ.”
 
Thiết nghĩ, là Nhà Sử học thì ông Dương Trung Quốc biết rõ hơn mọi người về sự khác biệt giữa “tiếp tục sự nghiệp chiến đấu” cho chính nghĩa hay “kháng chiến chống Mỹ” như “chống Pháp giành độc lập” trước đây.
 
Khác với cuộc chiến chống Pháp của toàn dân chứ không của riêng người Cộng sản, chủ trương “xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa” của đảng CSVN ở miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) sau Hiệp định Geneve 1954, là nguyên nhân của cuộc nội chiến nồi da xáo thịt đồng bào kéo dài 20 năm, 1955 -1975.
 
Ông Dương Trung Quốc đã thần thánh hóa nhóm chữ “sự nghiệp chiến đấu”“kháng chiến chống Mỹ” để xóa đi tội ác xâm lược miền Nam của đảng CSVN. Từ Chính quyền Quốc gia Việt Nam sau Hiệp định Geneve 1954 (Ngô Đình Diệm) đến các Chính phủ Việt Nam Cộng hòa sau này (1956-1975), chưa khi nào Quân đội của miền Nam đã vượt Vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước để trả đũa các cuộc tấn công của Bộ đội miền Bắc.
 
Ngược lại chính quyền Cộng sản miền Bắc đã bịa đặt ra chuyện đồng bào ruột thịt nhân dân miền Nam bị kìm kẹp trong gông cùm của Mỹ-Ngụy nên đã xâm nhập người và vũ khí vào Nam để mở ra chiến tranh dưới chiêu bài “giải phóng”!
 
Miền Bắc cũng đã mời 320,000 quân Trung cộng vào giúp bảo vệ miền Bắc để cho bộ đội rảnh tay mang súng đạn của các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa do Nga Sô lãnh đạo vượt Trường Sơn vào đánh phá VNCH.
 
Nhưng chắc ông Dương Trung Quốc, Nhà biên sử, làm sao có thể quên câu nói để đời của Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta.”? (theo Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr. 422, phần chú thích).
 
Như vậy thì chính nghĩa “giải phóng” cho ai và vì ai đã rõ chưa mà Đại biểu Dương Trung Quốc vẫn viết rằng: “Trong sự kiện 30.4.1975, ta dùng chữ “giải phóng” là rất đúng, nhưng giải phóng là hướng tới mục tiêu không chỉ độc lập dân tộc, mà quan trọng nhất, thiêng liêng nhất là thống nhất quốc gia. Ngày nay, rõ ràng chúng ta đang nối tiếp sự nghiệp ấy bằng việc bảo toàn sự toàn vẹn lãnh thổ, kể cả biển đảo. Tôi cho rằng, đương nhiên một cuộc chiến tranh có kẻ thắng người thua, nhưng quan trọng nhất là chúng ta đạt được mục tiêu. Mục tiêu không phải chúng ta chiến thắng đối phương, mà đó chỉ là phương thức để đạt tới mục tiêu thống nhất đất nước.
 
Lý luận con loăng quăng của Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam chỉ để giảm thiểu tính giả dối của hai chữ “giải phóng” và phủi trách nhiệm lịch sử đối với những người, ở cả hai bờ chiến tuyến, đã nằm xuống.
 
Trong suốt 20 năm chiến tranh, dù phải đối phó với cuộc xâm lăng tàn bạo của bộ đội Cộng sản miền Bắc và du kích quân Cộng sản trong Nam do miền Bắc chỉ huy, nhân dân miền Nam chưa hề bao giờ bị ai “kìm kẹp, áp bức, bóc lột sức lao động hay thiếu ăn, thiếu mặc và nghèo nàn” như đồng bào miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa.
 
Nếu ông Quốc bình tĩnh lấy kính hiển vi soi lại mức sống và tình trạng xã hội của miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì ông sẽ thất vọng khi biết đã có những người lính bộ đội bật khóc khi vừa đặt chân đến Sài Gòn hoa lệ của miền Nam, trong ngày được gọi là “giải phóng” vì đến lúc đó họ mới biết đã bị đảng đánh lừa đẩy vào cuốc chiến vô lý.
 
Câu nói nổi tiếng nhất trong họ là của bà Dương Thu Hương, Nhà văn gốc Bộ đội: “Tôi đã ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại.”
 
Bằng chứng lịch sử đã nói nhiều về sự khác biệt giữa hai xã hội Nam-Bắc khi họ bước chân vào Thủ đô Sài Gòn và các thành thị miền Nam mà không cần phải biện giải thêm.
 
Hơn thế nữa, theo theo 4 định nghĩa của “Đại từ điển tiếng Việt” của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin năm 1998 thì nghĩa của “giải phóng” là:
 
1.- Làm cho thoát ách áp bức, được tự do: giải phóng đất nước.
2.- Làm cho thoát khỏi những ràng buộc bất hợp lí: giải phóng phụ nữ.
3.- Làm cho hết mọi cản trở để thực hiện mục đích: giải phóng mặt bằng.
4.- Làm cho chất này được thoát khỏi chất khác: Phản ứng hóa học đã giải phóng chất khí.
 
Như vậy, sự kiện 30.4.1975 không thể gọi là “giải phóng” như ông Dương Trung Quốc đã bẻ cong tiếng Việt cho phù hợp với tư duy chính trị của Đại biểu Quốc hội, thay vì phải trung thực và trong sáng trong quan điểm của nhà viết sử.
 
Đồng bào miền Nam không cần miền Bắc giải phóng. Đảng và quân đội CSVN đã xâm lược và chiếm đóng Việt Nam Cộng hòa để thống nhất đất nước bằng võ lực để sau đó gây ra thảm trạng ngụy trang “học tập cải tạo” dành cho hàng trăm ngàn quân và dân miền Nam.
 
Cũng vì hai chữ “giải phóng” lừa bịp mà hàng chục ngàn con dân Việt Nam vô tội khác đã phải bỏ mình ở Biển Đông trên đường vượt biển tìm tự do.
 
Hai chữ “giải phóng” cũng đã bần cùng hóa nhân dân đô thị miền Nam đang từ no cơm ấm áo xuống hàng nô lệ bần cùng trong chiến dịch đuổi dân đi vùng “kinh tế mới” và “cải tạo tư sản miền Nam” hay “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam”, bắt đầu từ ngày 04/09/1975 chủ động trên giấy tờ bởi chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
 
Sau đó, giai đoạn 2 từ ngày 15/07/1976, làm theo Nghị quyết 254/NQ/TW của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (sau này đổi thành Đảng Cộng sản Việt Nam) quy định “về những công tác trước mắt ở miền Nam, hoàn thành việc xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.”
 
Sau chiến dịch sai lầm tận diệt tư sản - mại bản trong Nam, kết thúc năm 1978, nhân dân cả nước lâm vào đói kém khiến đảng phải “đổi mới hay là chết” tại kỳ Đại hội đảng VI năm 1986.
 
Đó là bài học “giải phóng”, không phải cho người dân miền Nam, phe bại trận mà cho chính những kẻ chiến thắng ngạo mạn chưa bao giờ biết rằng “lịch sử cũng biết nói”.
 
Rất tiếc Nhà sử học, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc không muốn dừng ở đây. Ông Quốc nhìn nhận lòng người trong-ngoài vẫn còn phân tán nhưng không quy trách nhiệm cho ai đã gây ra tình cảnh như bây giờ, 40 năm sau cuộc chiến chấm dứt.
 
Ông viết: “Chúng ta luôn tự hào nói về một cộng đồng hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng thực sự khiến cho cộng đồng ấy gắn bó với tổ quốc ta và chế độ chính trị của ta là một quá trình phấn đấu lâu dài.
 
Vì thế tôi cho rằng, năm nay kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta nên xác định và chia sẻ nhận thức ấy để thấy điều quan trọng hiện nay là phải quy tụ được nhân tâm vì đất nước... Trong hòa hợp dân tộc, nói về sự phân tâm chúng ta biết rằng nó gắn với những biến cố chiến tranh. Quy luật chiến tranh rất khắc nghiệt, có máu đổ xương rơi từ cả hai phía, có những chính sách khắc nghiệt để lại những vết hằn khó lành.”
 
Không làm được-tại sao?
 
Nhưng tại sao lại “khó lành” thì người Việt Nam ở nước ngoài và rất nhiều người trong nước, đặc biệt là giới Trí thức và cựu đảng viên biết rất rõ, sau khi đã cả đời hy sinh mà cuộc sống bây giờ vẫn còn hẩm hiu hơn kẻ hậu sinh chưa mất một giọt máu trên chiến trường.
 
Những người này đang ngày đêm đấu tranh đòi dân chủ và tự do cho con cháu và cho thế hệ mai sau, nhưng lại bị đảng đàn áp và cô lập, có người đã hết cả đường kiếm sống thì Nhà nước CSVN muốn hòa hợp và hòa giải với ai?
 
Do đó khi nghe ông Dương Trung Quốc kêu gọi người bỏ nước ra đi vì không còn đường sống với người Cộng sản “cũng phải hiểu tại sao lúc đó chúng ta phải tiến hành những chính sách cứng rắn như thế. Nhìn lại quá khứ ta thấy rằng, chiến tranh vừa kết thúc, nền kinh tế còn chưa khôi phục, kẻ thù cũ vẫn cấm vận và chống phá, lại xuất hiện những kẻ thù mới vốn là đồng minh của mình, mà cuộc chiến tranh biên giới ở Tây Nam và phía Bắc thể hiện những khó khăn chồng chất ấy.
 
Trong bối cảnh đó, những người cầm quyền cũng không còn cách nào khác, buộc phải đối xử bằng một chính sách rất khắc nghiệt. Nếu chúng ta chia sẻ được với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì sẽ giảm đi phần nào những mặc cảm, hận thù.”
 
Ông Quốc phát biểu như thế vì ông chưa hề bao giờ là nạn nhân của kẻ chiến thắng. Câu chuyện không đơn giản như rủ nhau ngồi vào chiếu rượu để uống cho say bí tỉ rồi bắt tay nhau cười vang “đoàn kết, đại đoàn kết” là xong.
 
Không hiểu Nhà sự học Dương Trung Quốc còn nhớ câu nói của ông Nguyễn Đức Bình, Giáo sư triết học, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, VIII, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, một thời đã nói chủ trương của đảng là “đổi mới nhưng không đổi màu”, “hòa hợp mà không hòa tan”?
 
Chân lý cực kỳ bảo thủ này vẫn đang được học tập và áp dụng sâu rộng trong đảng, nhất là khi Ban Tuyên giáo nói về “hòa hợp-hòa giải dân tộc”, tuy màu mè, hào sảng nhưng “trăm voi không được bát nước xáo”!
 
Vì vậy, sẽ không ngạc nhiên khi thấy ông Quốc nêu ra ý kiến: “Trong vấn đề hòa hợp dân tộc, cái chưa được là sự chênh lệch giữa những con người ở hai phía. Trong đó, một phía muốn đi nhanh hơn, còn một phía vì nhiều lý do mà muốn phải đúng mực. Như vậy, cả hai bên phải cùng thúc đẩy phải có sự trao đổi để gặp nhau.”
 
“Tôi thấy một nguyên lý của người xưa rất đúng là phải đặt vào địa vị người khác mới hiểu được người ta. Tôi suy nghĩ về việc có phải đây là sự chìa bàn tay của người chiến thắng với kẻ thua hay đây là trách nhiệm chung đối với tương lai, con cái của mình.”
 
Thiện ý của ông Quốc rất đáng để tâm, nhưng chưa ai quên được những cố gắng “hòa hợp-hòa giải” thất bại của hai Việt kiều nổi tiếng là nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và Nhạc sĩ Phạm Duy.
 
Hai ông đã đem về Việt Nam cả sự nghiệp và danh dự cá nhân cốt để “người chung một nước phải thương nhau cùng”! Nhưng sau 7 năm trăn trở đi-về giữa Mỹ và Việt Nam từ 2004 đến ngày qua đời ở Kuala Lumpur (Mã Lai Á) 23/07/2011, ông Kỳ đã không làm được gì cho đúng với “biểu tượng của hòa hợp dân tộc” mà phía chính quyền Cộng sản đã tặng cho ông.
 
Nhạc sĩ Phạm Duy về Việt Nam sinh sống từ ngày 17/05/2005 cũng với ý tưởng “người Việt hãy ngồi lại với nhau”, nhưng sau 8 năm rong hát đó đây từ Nam ra Bắc như ông tự coi mình là “lá rụng về cội”, Phạm Duy qua đời tại Sài Gòn ngày 27/01/2013, hơn một tháng sau khi người con trai cả của ông, Ca sĩ Duy Quang qua đời tại California ngày 20 tháng 12 năm 2012.
 
Sự ra đi của 2 mẫu người trong chuyện “hòa hợp-hòa giải dân tộc” tưởng là chuyện thường sinh-lão-bệnh-tử, nhưng đằng sau vẫn có một hố ngăn cách để giải thích tại sao chuyện “con cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” vẫn còn nhiều kẻ muốn đá giò lái khi ngoài miệng thì vẫn nói cười hòa hợp trơn hơn mỡ lợn!
 
Báo Quân đội Nhân dân
 
Đó là những gì mà Tác giả Thiện Văn của báo Quân đội Nhân dân đã viết trong bài “Cầu đồng tồn dị", vì mục tiêu tốt đẹp của đất nước”, ngày 23/02/2015
 
Tác giả khoe: “Thấm nhuần tư tưởng “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, một mặt, dân tộc Việt Nam dám đánh, quyết đánh và đánh đến cùng bọn xâm lăng cướp nước; nhưng mặt khác, dân tộc ta cũng rất khoan dung, độ lượng. Khi giặc đầu hàng, không những không trả thù, mà ngược lại còn đối đãi tử tế và cấp phương tiện, lương thảo cho chúng trở về nước. Hiếu sinh mà không hiếu sát, căm thù quân xâm lược mà không giết hại khi chúng thất bại là truyền thống nhân nghĩa cao cả của dân tộc ta. Với con người Việt Nam, sau khi “Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”!
 
Bài báo nói vậy mà không phải vậy khi đảng CSVN, một mặt phỉ báng những ai nghi ngờ sẽ có “tắm máu, trả thù ở miền Nam” sau ngày 30/04/1975, nhưng lại đánh lừa hàng trăm ngàn quân-cán-chính thất trận của VNCH đem đi đày ải cực hình tại các trại tù lao động mệnh danh “học tập cải tạo”.
 
Rất nhiều nạn nhân của chế độ mới đã bị chết mất xác, bị đổi xử tệ bạc và bị hành hạ thân xác trong các nhà giam bị bỏ đói, bị chết khát, bị còng tay chân đến mang thương tật cả đời và bệnh tật không được chữa trị.
 
Thế mà báo Quân đội Nhân dân vẫn tự khoe những điều không có thật: “Mang trong mình phẩm chất, tâm thế ấy từ hàng nghìn đời nay, dân tộc ta luôn mở rộng vòng tay để đón bạn bè khắp năm châu bốn biển, trong đó có cả những người Việt đã từng một thời “lạc lối lầm đường”. Với những người như thế, Đảng, Nhà nước ta luôn lấy tình đồng bào để cảm hóa họ, giúp họ hướng về điều hay lẽ phải và những giá trị, niềm tin tốt đẹp của cội nguồn, dân tộc. Trong mấy chục năm qua, nhất là sau khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới (1986), Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và lực lượng trong xã hội với thái độ “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung nhất, lớn nhất để cùng chung sống hòa thuận, gắn bó với nhau, không vì cái nhỏ, cái khác biệt trong suy nghĩ, phong tục, tập quán, lối sống mà gây chia rẽ, mất đoàn kết; đồng thời chấp nhận sự khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc sinh sống trên đất nước ta và người Việt ở nước ngoài, nhưng không trái với mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
 
Nhưng khi nói rằng đảng “chấp nhận sự khác biệt giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc sinh sống trên đất nước ta và người Việt ở nước ngoài, nhưng không trái với mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” thì đó là điều kiện tiên quyết không cần bàn cãi mà trên hết phải tuân hành, chấp nhận “chủ nghĩa xã hội”, hay chủ nghĩa Cộng sản cũng thế!
 
Như vậy là chỉ có đảng có lẽ phải, ai muốn “hòa hợp” thì chui vào, không có quyền bàn cãi phải trái?
 
Thiện Căn cũng không ngại lên giọng: “Đối với những người “đi theo phía bên kia” trong các cuộc chiến tranh trước đây, chúng ta sẵn sàng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ hồi hương, thăm thân và hợp tác làm ăn cùng xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
 
Từ Cương lĩnh của Đảng đến Hiến pháp của Nhà nước đều khẳng định: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Từ chủ trương đúng, chính sách nhất quán và thái độ ứng xử trước sau như một, hằng năm số Việt kiều về thăm quê hương ngày càng đông, góp sức người, sức của cho Tổ quốc ngày càng nhiều.”
 
Nhưng về thăm quê hương đâu có nghĩa là cuốn gói đi theo đảng? Việt kiều gửi tiền giúp gia đình cũng không đồng nghĩa với “giúp nước” của người Cộng sản?
 
Sau khi khoe “Chỉ tính 4 năm trở lại đây, lượng kiều hối chuyển về nước liên tục gia tăng. Nếu như năm 2000, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam mới đạt 1,3 tỷ USD, thì mười năm sau, năm 2011 con số này lên tới 9 tỷ USD. Ba năm qua (2012-2014), lượng kiều hối tăng dần từ 10, 11 đến 12 tỷ USD”, bài báo tự vẽ ra điều được gọi là “niềm tin” của Kiều bào với nhà nước: “Đó là những “con số biết nói” thể hiện niềm tin của bà con Việt kiều đối với môi trường hòa bình, ổn định của đất nước và những triển vọng tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển.”
 
Có đúng như Thiện Căn và báo Quân đội Nhân dân tự biên tự diễn về một sự đồng thuận chính trị nào đó đã gắn kết đảng CSVN với người Việt Nam ở nước ngoài, hay cũng chỉ là câu chuyện “hòa hợp để mồi đầu tư và hòa giải để được thêm kiều hối”?
(02/015)
 

Phạm Trần (danlambao)