Ngày nhạc sĩ Vô Thường mất, trên tuyến du lịch đến Phan Rang, Thúy, cô hướng dẫn viên cho phát những đĩa nhạc của ông đàn, và buồn bã loan tin "hôm nay 27 tháng 4 năm 2003, chúng ta mất mát người nhạc Sĩ Vô Thường quê quán ở Phan Rang, một địa danh mà lát nữa đây chúng ta sẽ đặt chân đến..."
Tháng Tư đối với người Việt tị nạn là tháng đau thương buồn thảm, còn gọi là Tháng Tư Đen và nhiều danh gọi khác. Cứ trong cái tháng ấy, tôi cảm thấy mình giống như một con chó xà mâu què nổi điên, tiếc là không tru hú được như con sói rừng. Năm tháng trôi qua, lòng nguôi phai im lặng nhưng với tôi tháng tư vẫn là cái tháng gương soi để nhìn ngắm lại mình một cách nghiêm túc. Nói chung là cái tháng buồn thấy bà, vậy mà Vô Thường lại chọn cái tháng của năm xưa ra đi làm tháng cuối đời trở về, trở về đất trở về nước hay trở về đâu? Dù sao cũng không mang ông ra biển, chỉ mang ông về đất vào đúng cái ngày 30 tháng 4 nghiệt ngã thê lương. Và cái ngày tháng lịch sử tang thương ấy, đã tròn 40 năm.
Vô Thường từ cái thời là cậu Kim Furniture tới cái thời trở thành nhạc sĩ Vô Thường, một cái vụt dòm lại đã hơn 20 năm ông sống trên xứ người và bây giờ là 40 năm từ cái mốc lịch sử ngày 30 tháng tư năm 1975. Tôi nhớ lại lúc ông đã đờn được khoảng năm bảy cuốn cassette, cuốn đầu tiên là liên khúc Trịnh Công Sơn, tiếng đàn nghe ma quái và buồn bã khó tả. Hồi đó, ông có cái máy cassette xách tay, trên mặt máy gắn keyboard có thể set nhịp điệu Slow, Rumba, Chacha, Tango v.v.. vậy là buồn buồn khi vắng khách ở tiệm bán bàn ghế trên đường số 5, ông vặn máy lên rồi tửng tửng đàn theo điệu nhạc, đổi tông thì vói tay nhận nút tiếp. Nhiều khi xe chạy ồn quá, mà ông còn đang hứng tay đàn nên rê cái máy vô bath room ngồi đờn thu cho nó êm.
Cứ mỗi chiều về, đàn chim tụ lại, những bạn bè hảo tửu, những tay có khiếu khôi hài nói dóc, bạn buôn bán, mấy thằng bạn văn thơ, vài người bạn nhạc sĩ như Phạm Hoàng Dũng, Trần Đại, Jimmy Long... tề tựu là cuộc nhậu bắt đầu. Cười đùa, đọc thơ, hát nhạc mới sáng tác, đọc bài mới viết, Vô Thường đờn và hát những bản nhạc ông vừa sáng tác xong tại nơi tiệm bàn ghế này.
Bạn bè nghe qua những cuốn băng ông đờn, thấy “ma quái” là lạ, ngọt ngào, có vẻ “ăn tiền”, bèn xúi ông ra băng nhạc. Cái ngày đầu tiên ông đem băng đi mời bán mới tức cười. Đến tiệm ông Tỷ đài truyền hình, ổng hỏi ai đờn? ông mà đờn? ai mua? sao bán được? thì cứ lấy thử, coi như tui gởi bán, chừng nào bán hết lấy nữa thì trả tiền đợt trước. Ừa... thôi lấy 5 cuốn thử coi... Ông buồn thiu, trong lòng nản chí anh hùng, lầm bầm rủa mấy thằng bạn mắc toi xúi đờn đem bán, in một đống mà bán hông được thì thấy mẹ tao... Nhưng ông cũng gắng ghé vô Tú Quỳnh, Thạnh với Yến thân tình nên sẵn sàng. Bước mấy bước qua Continental, làm bộ hỏi thăm mấy em bán hàng cho có trớn rồi gạ anh gửi ít băng nhạc hòa tấu anh đờn guitar, tụi em bán thử dùm, lấy tiền sau, 20 cuốn trước ha, hết gọi anh đem tiếp, ráng quảng cáo dùm anh nghe em cưng. Lái xe trên đường về, ông vừa hồi hộp vừa giận mấy thằng quỷ Lữ Mộc Sinh, Lê Giang Trần... xúi ông, khen ông... không bán được, ông chửi tắt bếp.
Về tới mở cửa tiệm, miệng lầm bầm thà ông bán bàn ghế chắc ăn hơn bán tiếng đờn. Nói vậy chớ bước vô liền đi thắp nhang ông Địa, vái rằng “Ông Địa ơi, lỡ tốn tiền in hết 500 băng rồi, Thổ Địa phù hộ cho bán được sẽ cúng đại tiệc, hổng cúng lèo tèo vài cam quít nữa”. Rồi sực nghĩ ra người bạn Đông Duy của ông, ông lại đổ thừa tại mày ỷ có nhà in rồi in bìa cho tao free, còn bỏ dấu sai lỗi chính tả, tình cũ mà nó chơi trên chữ cu dấu hỏi tỉnh bơ. Cái tựa “Ru Khúc Mộng Thường” cũng nó bày, mình nghe theo, khi in xong nó níu lại hỏi nhỏ “mày biết ru khúc mộng thường là gì không?” cái thằng Bắc kỳ đểu, thấy mình ngớ ra thì nó ré lên cười, kêu mày nói lái lại xem sao? ru khúc là rút ku... còn mộng thường là.... thiệt hết nói nổi!!! Đông Duy còn bỏ nhỏ, “cuốn sau là ‘Mộng Hà’...” Trời Đất! thiệt là thằng bạn quỷ quái, mình xuất quân mà nó coi là trò đùa. Bỗng điện thoại reo “Anh Kim hả? Gấp! Gấp! Gấp!! Em ở Continental đây, anh đem 50 cuốn Ru Khúc Mộng Thường ra liền ngay, khách họ đứng đợi nè, 20 cuốn anh đưa hồi nãy hết rồi, mang ra lẹ liền nghe anh, khách chờ đó!!!” Đó là niềm vui đầu tiên mà ông đã kể cho cho bạn bè nghe chiều hôm đó. Thượng Cầu (cậu Thường) Công Tử mặt mày sáng rỡ, cười nói líu lo, rượu Tây rót thoải mái. Nỗi lo âu ban sáng đã thay bằng rượu chúc mừng của bằng hữu.
Từ sau ngày đó, tất cả các tiệm nào có bán băng nhạc đều thi đua mở nhạc Vô Thường đờn guitar, hành hạ ỏm tỏi con phố Bolsa một thời gian không ngắn; rồi thì không biết bao nhiêu bài viết về tiếng đàn Vô Thường. À, còn cái tên nữa, Võ Thường mà Đông Duy bỏ dấu mờ ảo nên Phạm Công Thiện đọc ra Vô Thường, rồi kêu để luôn Vô Thường cho vô thường một chút. Ông tò mò hạch người Phạm Công Thiện về ý nghĩa hai chữ vô thường. Cao Xuân Huy khi biết tên Võ Văn Thường, giở giọng Bắc phê bình “văn cũng xoàng mà võ cũng xoàng”, lý do chàng họ Cao ức vì bỗng phát giác thằng bạn võ văn xoàng là “thần tượng” của bà vợ “yêu vấu” của mình cộng thêm cái list dài sọc trong family.
Vô Thường bỗng trở thành hiện tượng, trở thành người bày trò ra mắt băng nhạc. Những buổi ra mắt bán băng nhạc ấy được tổ chức ở nhiều bang và tất cả số tiền thu được, ông gửi đến các em bé mồ côi trong trại tị nạn. Không biết bây giờ, có em bé mồ côi tị nạn nào khi có dịp ghé đến thủ đô tị nạn Little Saigon, tìm đến nấm mộ của người nhạc sĩ có lòng nhân ái này, thắp cho ông một nén hương lòng hay đặt trên ngôi mộ ấy một đóa hoa dại tươi thắm để tỏ tấm tình với người nhạc sĩ vắn số.
Báo Register đến phỏng vấn Vô Thường. Một trang báo với hình ảnh trang trọng dành cho ông. Theo thời gian, ông được đưa vào sách những người nổi danh, ông có tên trong danh mục những nghệ sĩ tài danh của Pháp. Ông là nghệ sĩ nhận được thư khen tặng, thư cảm ơn của những thính giả ngoại quốc, hằng ngàn bức thư gửi đến ông qua đường bưu điện từ khắp thế giới. Những thính giả này sau khi nghe tiếng đàn của ông, gửi đến một lá thư khen ngợi thật cảm động, là niềm vui thỉnh thoảng ông mang ra khoe cùng bạn. Ông cho biết người ngoại quốc đa số đều mua một loạt toàn bộ những CD nhạc ngoại quốc ông đàn. Vài tháng sau khi ông mất, một tối tôi nghe có tiếng người ngoại quốc bên nhà Vô Thường, cặp vợ chồng Bác Sĩ người Phi, mua CD của ông đều đặn, rất ái mộ ông, hay tin ông mất đã ghé đến viếng linh vị ông và mua thêm nhiều CD để dành tặng cho bạn bè họ.
**
Có người sẽ hỏi “Vô Thường đàn thu nhạc ra sao?” Tôi nhớ có lần ông kể, có một nhạc sĩ tài ba gặp ông và phê bình ông đàn không đúng kỹ thuật. Ông trả lời đàn đại thôi, có kỹ thuật đâu mà đúng với sai! Ngón đàn thuộc về thiên tư, cũng là mấy ngón tay bấm vào dây đàn, nhưng bấm nhẹ, bấm nghiêng, bấm láy, bấm nhá, bấm nhún, bấm đẩy, bấm thẳng, bấm giữa đầu ngón, bấm mé ngón... âm thanh phát ra đều khác trên ngăn phím bấm ấy; chưa kể nội tâm đặt vào, sự hào hứng vui tươi hay buồn bã truyền vào cách khảy dây cùng với cách bấm phím lúc ấy, tạo nên độ rung âm thanh tải truyền sự truyền cảm réo rắt, mà có thể ở lần đàn khác khó diễn tả được hệt như vậy. Mỗi cầm thủ có ngón đàn riêng, không ai giống ai, nhưng phải là cái riêng, là cái khác, chứ không đồng dạng “đúng kỹ thuật”, kỹ thuật in khuôn chỉ là một phiên bản copy, thợ đờn chứ không mang tính độc đáo riêng biệt của một nghệ sĩ thả hồn người ấy nhập vào dây tơ đồng. The Venture ngón riêng, Shadow ngón riêng, Santana ngón riêng, mười ngón tay vàng Trung Nghĩa ngón riêng, Jimmy Long ngón riêng, Triều Thanh ngón riêng...
Vô Thường đàn tay trái không đổi dây, buộc phải sử dụng cách vuốt dây đổi nốt, trong khoảng mà âm thanh một nốt nhạc chuồi tuột uốn éo ấy, tạo ra nét đặc thù của ngón đàn tay trái. Ông đã từng là một tay đàn Mandoline nổi tiếng trên đài phát thanh; ông từng là một guitarist chơi trong ban nhạc cho Câu Lạc Bộ Mỹ ở Nha Trang. Ông kể thời còn bé, có người anh bà con đàn guitar rất giỏi, làm cho bao cô gái trong xóm mê tiếng đàn ấy. Yếu tố con gái mê tiếng đàn đã khiến ông nhìn người anh họ đó như thần tượng và phát lòng muốn trở thành một cầm thủ. Đó là cây guitar đầu tiên trong đời của ông khi thỉnh thoảng ông mượn được ra ngồi ngoài đường rầy xe lửa tập đờn. Chỉ có hai thanh sắt đường rầy lắng nghe ông đàn, gió mây trời đất cây cỏ lắng nghe, nhưng không có cô gái nào chịu lắng nghe anh nhóc tì ôm đàn tưng tửng tập mì fa sol la. Sau đó ông có khiếu về Măng cầm, có thể thời đó phong trào đàn Mandoline còn thịnh nên ông chuyên tập. Nhờ vậy, ngón đàn rung dây là một nét độc đáo hợp cùng nhấn láy và vuốt dây đổi nốt của Vô Thường. Nếu ai có nghe bài Giọt Mưa Thu do Vô Thường đàn sẽ thấy khó có ai đàn nghe buồn và diễn tả hay như vậy.
Tôi đã biết mỗi khi ông muốn đàn thì làm sao. Thường thì là những bản ông thích, có khi bỏ ra nhiều giờ để dợt bản nhạc ấy. Chừng nào thấy chàng khóa cửa không tiếp khách, suốt ngày hôm đó Vô Thường ngồi miệt mài đàn. Đó là những lúc chàng nổi hứng, nhập tâm với những bản chàng khoái, miệt mài đàn thu vào CD master. Có khi đàn một lèo mấy ngày, tính ra hai ba đĩa. Có khi một hai tháng chưa thấy ông cầm cây đàn, hỏi thì bảo chưa hứng, lúc này đi nhậu nhiều, bỏ bê đàn địch.
Cây đàn ông đàn đã được đi theo ông theo lời trăn trối, ông cắc cớ thiệt, nhứt định không để lại cây đàn, không muốn có tiếng đàn nào giống tiếng đàn ma quái của ông. Ông mua năm bảy cây, hiệu này hiệu nọ, dây sắt dây nylon, để rồi cuối cùng chỉ đàn được cây đàn đầu tiên, chỉ cây này mới thể hiện hết những âm thanh ông muốn hiện ra trong tiếng đàn, rồi khi chết vật bất lìa thân; kiểu này, tiếng đàn Vô Thường còn “onion summer” hành hạ thiên tiên hay địa quỷ một thời nữa. Mai kia ở Bolsa bỗng nhiều quỷ ma đến tị nạn vì tiếng đàn Vô Thường thì đừng ngạc nhiên nhé.
Sau khi ông đã đờn hầu hết những bản nhạc Việt nổi tiếng quen thuộc, ông bắt đầu lo. Ông lại sưu tầm những bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng đối với thính giả Việt xưa nay, và bằng tự tin vào ngón đàn của mình, ông lại làm phiền lỗ tai người ngoại quốc. Vậy mà không biết bao nhiêu cánh thư ái mộ như từng đàn bươm bướm bay về, khen ngợi tiếng đàn ông, thế mới lạ chứ! làm ông tự tin và nghiêng qua đàn nhiều hơn các sáng tác ngoại. Nhờ vậy ông không lúng túng khi thị trường băng đĩa nhạc Việt Nam xuống thấp đến mức thê thảm do lạm phát. Đĩa Vô Thường vẫn lặng lẽ và đều đặn phát hành. Số dĩa Vô Thường đàn bán ra thị trường lên đến trên 150 tựa. Khi ông về thăm quê hương, phát hiện trong nước có nhiều tay làm băng đĩa giả từ CD của ông, ông về Cali cười ha hả kể với bạn “tui phải mua đĩa của tui đờn, nó biết tui mà nhứt định hổng bớt giái, còn ngang nhiên đề chữ to tổ bố ‘Đại Lý Độc Quyền’ nữa chứ!!”
**
Từ khi những búng máu tươi tràn ra miệng, ông dứt khoát không đàn nữa. Có hôm, sáng ông qua trước nhà tôi ngồi phơi nắng cho dịu những cơn ho vật vã. Tôi muốn gợi lại cho ông đờn, xách cây đàn mà ông tặng cho sinh nhật tôi 1989, ngồi trước mặt thợ múa rìu. Len lén nhìn qua gương mặt ông để dò tâm trạng, thấy ông thả hồn theo tiếng nhạc nhưng có cái gì đó như đau đớn, như chia lìa với tiếng đàn, như mất hút người yêu dấu, như chới với muốn chụp cái gì mà không chụp được. Một nỗi buồn vô cùng, toát ra. Tôi ngưng đàn. Ông bảo đàn nữa đi, bữa nay sao đàn hay vậy? Ông có biết đâu, tiếng đàn mà ông nghe là tiếng oằn oại của một kẻ sắp mất bạn, tiếng của đè nén đau đớn chia lìa, của nỗi buồn u uất định mệnh tàn khốc. Của muốn khóc mà không khóc được.
Tết sẽ lại về nhưng có lẽ bài thơ phổ nhạc “Mâm Cúng Chiều Ba Mươi” của ông sẽ không còn được đăng lại hằng năm như đã dai dẵng đăng trên báo của Lâm Tường Dũ và báo Mai của Hoài Điệp Tử. Chuyện cúng chiều 30 Tết “nhìn khói lên trời, nước mắt con tuôn” ở khoảng thời gian mà quê hương Việt chỉ như một xứ thần tiên đầy kỷ niệm, như Atlantic đã chìm sâu mất tích dưới lòng đại dương... khoảng thời gian ấy nghĩ lại vậy mà thơ mộng, dù nước mắt rơi mỗi khi Xuân về, dù buồn thúi ruột, nhưng quê hương rõ ràng là hình ảnh cách biệt phương trời khiến đem lòng tương tư nhớ tưởng khôn nguôi, mơ ước sum vầy một ngày tươi sáng... Tất cả, đã tạo cảm xúc cho ông, cụ thể bằng trang trọng mâm cúng ông bà chiều cuối năm, thành hình một bài thơ rồi ông phổ thành nhạc. Sau vài ly rượu ấm lòng trong bữa tiệc cuối năm đón giao thừa, chung quanh đầy bạn hữu, những con người thiếu tình gia đình, không thân nhân, sống kỳ hồ, cùng chia sẻ chung một tâm trạng xa nhớ quê nhà, ông dạo đàn và hát lên nỗi niềm của những tâm trạng như vậy. Không khí ồn ào chợt im lắng, nằng nặng trong lòng ngực, một cái gì buồn bã phủ trùm không gian... nhìn lên chỗ bày biện cúng kiến trưng hoa quả, ngọn đèn cầy yếu ớt lung linh, khói nhang phảng phất tỏa lên không trung, lòng tôi mông lung mong có sự thiêng liêng thật sự của tổ tiên ông bà ở trong nhang khói ấy, chứng giám thương cảm cho những tâm hồn khắc khoải quê hương đang trải lòng hồi niệm về quê cha đất tổ nơi sinh thành, rồi lớn lên trong chiến tranh, rồi sống sót sau cuộc chiến, rồi may mắn vượt thoát qua trùng dương bao la, giờ đây sống “một thời” tha hương trên xứ người.
Khoảng thời gian này còn Phở Ngon, Vô Thường chọc quê, quán tên “phở ngon” nhưng chỉ có “bia ngon”. Cao Xuân Huy “câu đối” hơn: “quán hông ngon, dám đặt tên Ngon, ngon thiệt!”. Quán rộng rãi, trang trí vài ba túp lều tranh, có cầu ván bắc ngang hòn non bộ nước chảy róc rách, treo những bức nhiếp ảnh về quê hương, tạo nên một khung cảnh rất Việt Nam, khách bước vào cảm thấy ấm cúng nỗi nhớ nhà. Quán bán khuya đến 3 giờ sáng, cuối tuần là điểm hẹn về khuya của những tửu hữu, những cặp tình nhân tìm thức ăn ấm lòng sau khi rời vũ trường. Đến đây có nghĩa là chín phần mười sẽ gặp bạn, có thêm ít thời gian vui đùa, mời nhau ly rượu trước khi trở về lại căn nhà thuê hay phòng trọ vắng lạnh. Quán có sân khấu nhỏ, đặt Piano và giàn trống, anh Lưu thổi kèn kiêm đại hồ cầm, anh Tâm múa dương cầm và Accordeon, Vũ Công Lý tình nguyện nhịp trống. Dù chỉ là một sân khấu khiêm tốn nhưng chia sẻ tình thân qua những bản nhạc hát cho nhau nghe.
Nhưng nhớ đến thời Phở Ngon không vỏn vẹn chỉ có thế, anh Cao Thy chủ nhà hàng (đã nằm xuống) mỗi năm tổ chức đón giao thừa. Trước cửa nhà hàng dựng Nêu, một cành tre cao nghệu treo liểng đỏ viết câu đối và xâu pháo giả, bên trong, trước sân khấu dựng bàn thờ tổ quốc với bộ lư hương to, cặp chân đèn cũng to tướng sáng bóng, cùng hoa tươi, ngũ quả tươm tất, lá quốc kỳ Việt Nam được làm nền trang trọng sau bàn thờ. Phần ăn đón giao thừa giá tượng trưng 5 đô, gồm miếng bánh chưng, nhúm dưa món và ly nước ngọt hay chai bia. Giờ giao thừa điểm bằng một hồi trống, vài bô lão lên nhang đèn và khấn nguyện, bài quốc ca trổi lên, mọi người đứng nghiêm trang chào quốc kỳ và cùng hát. Một phút mặc niệm cho những người hy sinh vì tổ quốc và những thuyền nhân đi tìm tự do bỏ mình trên biển cả. Tôi bấy giờ bỗng lồng ngực nghẹn cứng và nước mắt tuôn trào không kềm hãm được, liếc qua bạn bè chung quanh thì cũng vậy, người nào đôi mắt cũng ướt nhem, cái mặt buồn thê thảm... ôi... quê hương... sao mà thê lương, sao mà xa vời mơ hồ mất hút đến thế...
Vô Thường lúc nào cũng ho xù xụ, khò khạc luôn mồm vì cái mũi hành hạ quanh năm, ngồi nhậu thì kế bên là một đụn giấy đầy vun do chàng hỉ mũi; bởi vậy, tôi làm bài lục bát diễn tả về ông, có câu “thổ ra máu nhạc, khạc vào âm thanh” mà ông lại rất khoái. Không ngờ, ông thổ ra máu thật sự. Đó là khoảng 4 tháng trước khi ông chịu vào nhà thương.
Bên kia Út Khanh con ông lúc đó 22 tuổi, quyết liệt muốn sang Mỹ tìm “Già” (danh gọi dành cho ba) nên khiếu nại hồ sơ đoàn tụ. Khanh lớn lên chỉ biết Già qua hình ảnh thư từ, đón nhận tình cha qua số tiền gửi đều đặn và những món quà đóng thùng gửi về. Khi Khanh sang đây, kể lại ý muốn quyết liệt ấy và nếu sang Mỹ mà Già không thương không nhận thì Khanh trở về lại Việt sống với mẹ. Nhưng nhứt định phải qua Mỹ gặp tận mặt người cha không biết mặt mũi ra sao và đã ra đi khi bé vừa lên ba. Bỗng dưng bên này ông cũng mở lại hồ sơ, muốn sum họp cùng hai con gái. Cuối cùng hai cô con sum hiệp cha già. Trong ngày cưới của Khanh, ông ngậm sâm, cố nén cơn ho tức ngực và những bụm máu luôn tràn theo cơn ho. Hôm đó trên sân khấu cảm tạ quan khách, ông bình tĩnh, pha chút dí dỏm, kín đáo nói lên lời từ biệt thân ái với mọi người. Máu dịu dàng nén lại dưới lồng ngực. Giọng khàn không ra tiếng bỗng ấm áp bình thường. Chữ nghĩa bỗng duyên dáng đầm thắm. Đó là lần xuất hiện cuối cùng của nhạc sĩ Vô Thường trên sân khấu.
**
Tôi nhớ ông dí dỏm kể “lịch sử lấy vợ” làm cho bạn bè cười bò lăn, ông kể một bữa tui ra Nha Trang chơi, ghé nhà bà dì thấy một cô gái tóc dài, nước da trắng bóc, tui hể thấy con gái nước da trắng thì “hẩu” liền. Hỏi dò bà dì, biết cô này ở đây nên ở lại chơi ít bữa. Hổng biết tui ghẹo sao mà cổ chịu. Tui tìm cách ngủ cho được với cô, bật ngửa ra cô còn trinh. Hối hận và cảm động nên nói với cổ là em về nhà em đi, anh sẽ tới nhà hỏi cưới em. Tui trở vô Sàigòn. Tui quên bẵng cô gái này cho tới vài tháng sau, một hôm sực nhớ, chết mẹ, mình lỡ hứa, với lại người ta trong trắng trao thân, vậy là mình phải về Nha Trang tìm rồi tính. Hôm sau tui vọt ra Nha Trang, khổ nỗi có biết nhà cổ đâu, hỏi bà Dì thì không dám, tui chạy chiếc lambretta vòng vòng vô mấy cái xóm hỏi thăm. Mãi đến chiều tối, tui nản vì lục lạo khắp mà chả ai biết nhà cô Thuận, tui tự an ủi là đã cố gắng hết sức mà không gặp, chắc ông Trời hổng trách đâu, đảo thêm một vòng rồi mai về lại Sàigòn. Nhưng duyên nợ ông Trời đã tính rồi, tui quay xe sắp sửa ra khỏi xóm thì thấy có một cô tóc dài đang quét lá ngoài sân nhà trông dáng giông giống, trời sụp tối nhìn không rõ nên tui rề đại vô coi thử phải Thuận không. Vậy mà phải ông ơi!! Tui thở dài, trong bụng bảo ý trời.
Tui và Thuận vô nhà, Thuận ở với bà Dì. Tui thưa với bà dì tui xin cưới Thuận vì hai đứa thương nhau. Bà dì biểu ra chợ mua mấy chai xá xị đem về, rồi thắp nhang lên bàn thờ mẹ Thuận, vậy là xong thủ tục cưới vợ. Sau khi hai đứa lạy bàn thờ, bà dì nói bây giờ con có quyền dắt vợ con về nhà. Sáng hôm sau, tui đưa Thuận về trình diện mẹ tui ở Phan Rang. Bước vô cửa tui nói “Mẹ, đây là vợ con” Bả chưng hửng, nhìn Thuận từ trên xuống dưới, một hồi rồi nói “con đã quyết định thì mẹ chấp nhận thôi”, rồi quay qua gọi Thuận bằng con. Để vợ ở với bà già ngoài Phan Rang, tui lại vọt vô Sài Gòn lo làm ăn kiếm tiền, lại chạy về Phan Rang mở cái quán cà phê cho vợ, lúc đó vợ tui sanh xong bé gái đầu lòng được 1 tuổi, tui đặt tên Diễm và lấy tên Diễm cho quán cà phê. Tui sợ có thêm đứa nữa, nên vợ sanh xong, tui hổng dám hó hé, về thăm nhà thì đi nhậu với bè bạn, khuya về vác ghế bố ra ngủ ngoài sân “cho nó mát”. Trở vô Sài Gòn ở miết tới hai năm sau, cũng y tuồng cũ, nhưng đêm đó trời mưa to quá, nhậu khá say sợ ngủ ngoài trời trúng gió chết nên mò vô nhà. Mò vô có một đêm đó mà lòi thêm bé Khanh. Diễm lên 6, Khanh lên 3 thì 1975, tui lên tàu vượt thoát. Sau hơn 20 năm được sum họp hai con không bao lâu thì ông bỏ đi nữa. Chuyến này thì vĩnh viễn ra đi, đi về phương trời viễn mộng thần tiên, bỏ lại con phố Bolsa, bỏ lại bạn bè, bỏ lại hai đứa con mà ông coi như làm xong bổn phận.
Tôi nhớ bài thơ của Lữ Mộc Sinh thời đó:
Mai này tớ thấy ở Bolsa,
cảnh trí buồn thiu đám khỉ già
chống gậy ngu ngơ hồn lú lẩn
nói cười như thể sắp ra ma.
Vô Thường ơi, tôi giờ đây biến thành con khỉ già mất rồi. Phạm Công Thiện khi ấy trở qua Mỹ sau ba tháng ông ra đi. Mỗi đêm ngồi sau bếp nhà tôi ngó qua nhà ông, bên chai rượu và kinh kệ ngổn ngang, ngồi uống im lặng nghe đi nghe lại những CD ông đàn, nhất là đàn nhạc Trịnh vì thích bài “Chiều nay tôi ra phố về, thấy đời mình là những chuyến xe..” nên vừa dứt bài thì la lên “Vô Thường, đàn lại cho tui nghe” rồi nhấn nút trở lại đầu bản nhạc. Tui làm sao ngủ được, ra bếp uống nước, anh Thiện kéo lại, nói “Trịnh Công Sơn bạn tao, chết; Vô Thường bạn tao, cũng lại chết, cuộc đời sao hiu hắt tận cùng đến thế...” Rồi đổi giọng “Hông, Vô Thường nó đang ngồi đây với tao, đang nhậu với tao, đang đờn cho tao nghe” rồi huyên thuyên về cái tài đàn của ông mà có lần ảnh kể cho nghe chuyện cầm mấy cái CD ông cho mang về Úc khoe với má ảnh là của Vô Thường tặng, Má ảnh hỏi “Mày là bạn Vô Thường thiệt à?” rồi ảnh ha hả cười giải thích, ý bà già muốn nói là mày mà được quen với Vô Thường sao? Với tôi, hình ảnh Phạm Công Thiện ngồi hiu quạnh hắt hiu nghe hết ngày này sang đêm nọ chồng đĩa nhạc VT vài chục cái, và những ly rượu liên tục, những điếu Pall Mall đỏ không đầu lọc cũng liên tục rực cháy theo tiếng đàn văng vẵng giữa đêm khuya trong một xóm nhỏ nghèo nàn vắng lạnh, không những làm tui buồn đứt ruột... tôi còn thấy tận cùng của nỗi đau mất mát tình thân, của nỗi cô độc không can thiệp được của những con thú, mà ai về Việt có thể cảm nhận, cảm thấy mình giống như mấy con khủng long tiệt chủng đang cô độc lẻ loi tận cùng giữa phố xá Sài Gòn.
Vô Thường, tôi viết bài này vì mâm cúng chiều Ba Mươi ở năm thứ hai mươi mốt của ông là mâm cúng cuối năm cuối cùng, không còn có ông réo bạn đến để chia sẻ trong ngày cuối năm, cùng nhau bên ly rượu nhắc nhớ những kỷ niệm một thời, những xa tít bên kia bờ đại dương. Một thời, nghe mà buồn. Ông vì chứng bệnh nguy ngập không muốn có thăm viếng tấp nập nên lặng lẽ ẩn mình nơi nhà người em họ, nhưng cúng ông bà cuối năm thì không bỏ lệ nên Mộ Dung và Diễm, Khanh đã rước ông về cúng đưa ông bà, sau là ăn Tết ở nhà, tránh mang tiếng năm mới người em phải chứa người đau kẻ bịnh; hơn nữa chị Bạch Yến từ Pháp sang muốn chia sẻ cùng ông cái Tết không vui này. Những ngày Xuân cửa nhà ông đóng im lìm thì nhà tôi cũng lạnh ngắt vắng tanh... Những ngày cuối, qua thăm ông, ông nhìn tôi, đôi mắt gần như dửng dưng với tất cả, ông thều thào “Trần ơi, chỉ còn 10% thôi, 90% xong rồi. Ông ở lại mạnh giỏi, ráng nghe...”
Hôm nay, có một người rừng nhớ bạn, cho có chút ấm lòng trong trong cõi sống lặng im của những ngày cuối tháng Tư. Cây đàn ông đem theo ấy, nhớ mang ra đàn cho mọi người chỗ ông đang ở, nghe cho biết tiếng đàn một thời ở Bolsa. Một thời, ôi, nên nhớ... hay nên quên? Bạn bè đâu hết rồi? mình sống tệ đến vậy sao? mình trở thành bóng ma trong cõi đìu hiu này sao? sống như vậy để làm gì? tại sao có quê hương mà mình không sống ở quê hương được?
lê giang trần
(tháng Tư của năm thứ 40 đếm ngược về 1975)
No comments:
Post a Comment