3/31/2016

Trung Cộng Khủng Bố Việt Nam Bằng Vũ Khí Môi Sinh Chiến Lược Qua Các Đập Thủy Điện...

Mường Giang (Vietbao.com)
3/31/2016


Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã căm thù đến tận xương tuỷ, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn của thân phận nhưọc tiểu VN, trong biển máu lệ nước mắt. Bởi vì cùng lúc, giặc Tàu còn gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc nhất là đang sử dụng những đập thủy điện trên các dòng sông phat nguyên trên đất Tàu, chảy vào VN, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên quan tới sự sống còn của dân tộc. Ai có thể ngăn được sự phẩn uất, trước lời tuyên bố xấc xược và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên nghiên cứu của Trung Cộng, về việc khai thác sông Mekong Đây là đất nước Tàu, nên muốn làm gì cũng được, ai dám ngăn cản.

Mới đây báo chí tại Trung Cộng đã đồng loạt đăng tải sự lên tiếng của các chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Đại học về môn địa chất là Yuan Aiguo. Theo họ thì tình trạng ô nhiễm đang xãy ra trên sông Dương Tử rất nguy kịch, ngoài việc gây bệnh ung thư vì nước uống, dòng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại và cả xác tàu thuyền bị chìm. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng bít nhưng thảm trạng cũng đã bị phanh phui trên dòng sông Tùng Hoa.

Xem như vậy làm sao các dòng sông thiêng của VN như Hồng Hà, Đà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cửu Long, đều phát xuất từ bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lãnh thổ chúng ta, chắc chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu, trong lúc miền Nam đang hạn hán kinh khiếp vì nước sông Cửu Long gần như sắp cạn kiệt. Ngoài ra tình trạng ô nhiễm nguy kịch chết người, đến với đồng bào khi sử dụng nguồn nước sông để uống. Hởi ơi, người Việt đã làm nên tội lỗi gì trong quá khứ, mà nay con cháu phải nhận lãnh những oan khiên tàn khốc của nợ đời, do chính bọn lãnh đạo CSVN mang tới, sau ngày 30-4-1975.

1 - ĐẬP THỦY ĐIỆN: VŨ KHÍ MÔI SINH CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG

Giang Nam là tên gọi của lưu vực hạ nguồn sông Dương Tử, do nhà Thanh (1644-1912) đặt ra, gồm các tỉnh Giang Tây, Giang Tô và Triết Giang. Miền này thời Đường, Tống được gọi là Giang Châu, nguyên là đất đai của Bách Việt (Ngô Việt, Mân Việt, Âu Việt và Lạc Việt…), thủ công tinh xảo, dân trí thanh lịch, non nước hữu tình.

Sông Dương Tử còn có tên là Trường Giang, đứng thứ ba trên thế giới sau sông Amazone (Nam Mỹ) và sông Nil (Đông Phi), có chiều dài 6380km, phát nguyên tại vùng rừng núi Thanh Hải (Tây Tạng), từ trên độ cao 6600m, chảy qua phía tây Tứ Xuyên, xuống phía bắc Vân Nam, rồi đổi hướng chảy ngược lên phía đông Tỉnh Tứ Xuyên, ngang qua các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô và ra Biển Đông tại Hoàng Hải. Nếu tính luôn các phụ lưu, chi nhánh chằng chịt khắp miền Hoa Trung, thì chiều dài của sông Dương Tử lên tới 80.000 km, với hơn 12 triệu dân, gồm 55 sắc tộc, sinh sống ở hai bên bờ sông với đủ nghề.

Trên thượng nguồn, sông Dương Tử có 3 khe núi lớn gồm 25 thác đổ, nhiều nơi nước chảy xiết nhất là vào mùa mưa, khiến cho các ghe thuyền xuôi ngược dễ bị chìm vì đá ngầm. Đó là hẽm Kingtanxia dài 5km, hẽm Wuxia dài 25km và hẽm Xilingxia dài 47km., tuy ngày nay đã được nạo vét nhưng tàu qua lại vẫn phải có hoa tiêu hướng dẫn để tránh nguy hiểm.

Lưu vực sông Dương Tử hiện nay có hơn 400 triệu người sinh sống. Ngoài ra vùng này còn có 5 hồ lớn, thường được nhắc nhớ trong các tác phẩm thơ văn của Trung Hoa. Phân Dương Hồ, chứa nước ngọt, rộng tới 5000 km2, nằm trong tỉnh Giang Tây, gần thành phố Vũ Hán. Động Đình Hồ có các sông Tiêu và Tương đổ nước vào và thông với Trường Giang qua sông Hán. Hồ nằm phía tây tỉnh Hồ Nam, nổi tiếng với Nhạc Dương Lầu, măng tre Thần Châu và quít ngọt Động Đình Hồng. Thái Hồ chứa nước mặn nằm giữa hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây. Sào Hồ và Tây Hồ.

- ĐẬP THỦY ĐIỆN TAM HIỆP TRÊN SÔNG DƯƠNG TỬ:

Tháng 12-1994, Trung Cộng chính thức khởi công xây dựng Đập Thủy Điện Tam Hiệp (Three Gorges Dam), trên khúc sông Dương Tử, chảy trong tỉnh Hồ Bắc, vừa để khống chế nạn lụt hàng năm, đồng thời xây dựng một nhà máy thủy điện với công suất tổng cộng lên tới 12.000 MW. Để thực hiện công trình trên, đảng cộng sản đã đuổi hơn 1,5 triệu người dân bản địa, đồng thời làm xáo trộn sinh hoạt của 20 thành phố lớn nhỏ trong vùng.

Tam Hiệp, địa điểm được chọn để xây dựng đập thủy điện, là tên một khúc sông Dương Tử dài hơn 200km, từ phía tây tỉnh Tứ Xuyên, chảy qua phía đông tỉnh Hồ Bắc, được coi như điểm nối của vùng thung lũng Tứ Xuyên với các đồng bằng miền Hoa-Trung, phía dưới hạ nguồn. Khúc sông này chảy qua ba hẽm núi lớn và 25 thác đổ. Theo nhận xét của nhiều bậc thức giả trong và ngoài nước, thì dự án Đập Thủy Điện Tam Hiệp tuy đã được manh nha từ thời Dân Quốc, do Tôn Dật Tiên đề xướng. Nhưng bị các hội bảo vệ môi trường sinh thái địa cầu chống đối, vì nó sẽ hủy diệt vĩnh viễn cảnh quan thiên nhiên trong vùng, đồng thời xóa tên 140 thành phố lớn nhỏ, 4500 làng mạc, 30.000 ha đất trồng trọt, hằng ngàn di tích lịch sử và tiêu phí một ngân khoản khổng lồ, mà không chắc đạt được kết quả mong muốn.

Với nước Tàu, từ trước tới nay sông Dương Tử là nguồn nước tưới cho cả khu vực đồng bằng Hoa Trung, miền đất cá và gạo, chiếm nửa tổng sản lượng của cả nước. Nhưng đồng thời sông Dương Tử cũng là tai ương ngàn năm của Hán Tộc, riêng trong thế kỷ XX lụt lội đã gây cho hơn 300.000 dân chúng trong vùng thiệt mạng. Giống như sông Mekong, sông Dương Tử cũng phát xuất từ Tây Tạng, chảy qua khu vực Tam Hiệp, trước khi vào thành phố Trùng Khánh, được coi như lớn nhất hiện nay tại Hoa Lục.

Từ nhiều lý do, trong đó quan trọng nhất cũng vẫn là mục tiêu chính trị, khiến cho Bắc Kinh đã nhắm mắt lao vào một công trình rất tốn kém về tiền bạc, sức người lẫn thời gian, gây ảnh hưởng nặng nề đến vấn đề tâm lý, khi đàn áp đuổi dân, phá hoại các công trình kiến trúc bao đời trong vùng. Thực hiện được đập thủy điện này, về quốc tế Trung Cộng sẽ hãnh diện có thêm một kỳ quan, sau Vạn Lý Trường Thành. Về kinh tế, Đảng Cộng Sản nuôi hy vọng, nhờ nó giúp mức phát triển 11% hàng năm qua nguồn cung cấp điện cho công nghệ và sinh hoạt.

Đây là một cái đập khổng lồ, kinh phí dự chi tốn khoảng 30 tỷ đô la, thực hiện trong 14 năm. Chiều cao của dập 607 bộ, chiếm một diện tích hơn 1 dặm vuông., bao gồm một hồ chứa nước dài 370 dặm và một hệ thống khóa đặc biệt: Hút nước từ các nguồn nước khác khi thiếu, cũng như xả nước vào mùa lụt, vừa giúp sự giao thông trên sông Dương Tử, đồng thời vét vơ nước từ các con sông khác, qua hệ thống kênh đào, để tưới cho các vùng đất khô hạn xa xôi ở phía tây.

So với các đập thủy điện khác trên thế giới, dập Tam Hiệp không cao và rộng hơn nhưng lại trội nhiều về sức mạnh, với 26 Turbin mà trọng lượng mỗi chiếc 400 tấn/1 chiếc, sẽ tạo ra 18.200 magawatt điện, công suất tương đương với 18 nhà máy điện nguyên tử. Đập này mạnh hơn các đập Itapu (giữa Brazil và Paraguy có công suất 12.600 megawatt ), dập Guri ở Venezuela có 10.300 megawatt, dập Grand Coulee ở Colorado của Mỹ có 6809 megawatt và đập Sayano Shushensk ở Nga với 6400 megawatt.

Theo nhận xét của thế giới, Trung Cộng đã tốn hết 75 tỷ mỹ kim cho công trình vĩ đại này (chứ không phải 19 tỷ như tuyên bố của đảng). Vì mục tiêu chính trị, Trung Cộng không cần biết tới tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án, hầu như đều bị sự phê bình chỉ trích của các nhà đầu tư và tài chính quốc tế. Bởi thế nên không làm lạ khi nghe Phó giám đốc xây dựng đập là Cao Guangjing, nói rằng muốn biết đập có hoàn hảo hay không, phải đợi tới 30 năm sau mới thấy được.

Chưa hết, Trung Cộng còn cho biết sau khi hoàn tất đập Tam Hiệp vào năm 2008, Đảng lại tiếp tục xây thêm 10 đập khác trên thượng nguồn sông Dương Tử, nối tiếp vùng Tam Hiệp. Điều lo lắng nhất của người Tàu hiện nay, là làm thế nào để có thể giảm nhanh chóng một biển nước khổng lồ, luôn được chứa trong hồ với độ cao từ 512-574 ft, khi mùa mưa tới. Thãm kịch về đập thủy điện Banqiao ở Hồ Nam, vào năm 1975 mưa nhiều vở đê kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống đập chung quanh, gây lụt lội làm chết hơn 230.000 người. Nhưng Trung Cộng đã ém nhẹm tới gần đây thế giới mói biết. Ngoài ra đập thủy điện Tam Hiệp lúc chưa khánh thành nhưng đã có nhiều dấu hiệu bể nứt xuất hiện. Điều này cũng dễ hiểu, vì trong thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Tàu,Nga, VC, Bắc Hàn, Cu Ba), gần hết ngân khoản của các công trình xây dựng, đều bị cán đảng và quan quyền lớn nhỏ, móc ngoặc với nhà thầu, chia, chặt, xén, bỏ túi.. cho nên đâu có kiến trúc nào được toàn vẹn, vì vậy chưa bàn giao đã lung lay hay sứt mẽ là cái chắc.

- HỆ THỐNG ĐẬP THỦY ĐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY VÀO VN:

Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Kampuchia và VN rồi ra Biển Đông tại chín cửa lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lãnh thổ VN, mới có tên là Cửu Long Giang. Cũng vì dòng sông có sự liên hệ của nhiều nước, nên đã có chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong, do nhiều tổ chức và các định chế tài chính quốc tế tham gia. Trên lý thuyết, đã có tới sáu chương trình và dự án phát triển con sông trên. Chương trình Ủy ban sông Mekong (MRC), do LHQ khởi xướng từ năm 1957, nhằm quản lý nguồn nước và tài nguyên của sông, được xúc tiến mạnh sau năm 1975, khi chiến tranh Đông Dương lần 2 chấm dứt.

Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại khởi xướng chương trình hợp tác sông Mekong, giữa các nước liên hệ (GMS), thúc đẩy sự đầu tư khai thác của các nước trong vùng, qua các dự án đầu tự do ADB chi phối. Năm 1993, Nhật Bản đề xướng diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương (F&DI), chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng có sông Mekong chảy qua. Tiếp theo Nhật lại đưa thêm dự án AEM-MITI nhằm giúp Miến Điện, Lào, Kampuchia chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng năm 1993, Thái Lan lại đề xướng chương trình hợp tác sông Mekong, nhằm phát triển khu vực sông chảy qua các nước Tàu, Miến Điện, Thái Lan và Lào.

Tháng 12-1995, Tân Gia Ba và Mã Lai lại đề xướng dự án hợp tác phát triển sông Mekong của các nước thành viên Asean có sông Mekong chảy qua, ưu tiên là đặt hệ thống đường sắt.. Nhưng tất cả đều là lý thuyết, vì Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước khác ở hạ nguồn. Trung Cộng đã ỷ mình nước lớn, nên đã bất chấp sự phản đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đã xây dựng cả hệ thống Đập Thủy Điện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia và VN.

Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên mãi tới năm 1989 khi Đặng Tiểu Bình mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam. Theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam và lời xác nhận của Hiroshi Hiro, người Nhật, một chuyên gia về sông Mekong, cho biết Trung Cộng đã xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này, đó là chưa kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi, Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều, Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Đại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa Trát Độ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mãnh Tòng.

Sông Mekong hay Dza-Chu (Nguồn nước của đá), phát nguyên từ cao nguyên phía đông Tây Tạng, dài hơn 4000 km, chảy về hướng Nam, băng qua những hẽm núi sâu và rừng núi hoang lạnh của tỉnh Vân Nam với cái tên Lan Thương Giang (Lancang Jiang). Riêng khúc sông chảy giữa biên giới Lào-Thái mang tên Mae Nam Khong. Tại Cam Bot sông lại có tên là Tonle Thom và cuối cùng Cửu Long Giang trong lãnh thổ VN.

Trong cuốn sách 'Lan Thương Giang - Tiểu Thái Dương', do Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn hành bằng tiếng Tàu, từ đầu tới cuối chỉ đề cao tới tiềm năng của sông cần khai thác, tuyệt nhiên chẳng thấy nói tới hậu quả nào do chuổi đập gây thiệt hại tới các nước ở hạ lưu. Điều này dễ hiểu, vì Trung Cộng luôn coi đó như một bí mật quốc phòng, thứ vũ khí môi sinh chiến lược, để khủng bố VN, quốc gia cuối cùng nơi dòng sông thoát ra biển.

Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa và xả nước trong mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẽ không còn những cơn lụt hằng năm, mang phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền, sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm, làm cho Biển Hồ khô chết, còn đồng bằng miền Nam ven biển Đông, sẽ bị ngập mặn vì lòng sông thấp hơn mực nước biển.

Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất thường cho dòng sông Mekong, làm xói lở hai bờ, đọng nhiều muối trên đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữ lại, làm cho ruộng thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đã trút đổ những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như chì, kẽm, cyanide.. gây ô nhiễm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các loại cá.

Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lan Thương Giang, lớn thứ nhì trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Đập này có công suất điện 4200 MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối nước, từ nguồn sông Mekong. Đập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ đola.

Ngày nay Trung Cộng đã công khai đe dọa thế giới, trực tiếp đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy người Tàu toàn quyền khai thác sông Mekong và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con sông này vào năm 1995 cũng như không cần đếm xỉa tới thảm họa môi sinh của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nhìn thấy rõ, nhất là mưu đồ dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.

2 - ĐỒNG BẰNG VÀ SÔNG NGÒI VN, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU:

Diện tích VN hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền châu thổ Bắc Việt hình thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Đồ Sơn, Việt Trì và Phát Diệm., với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc Phần (115.700 km2), được hình thành bởi phù sa sông Hồng Hà và Thái Bình.

- SÔNG HỒNG HÀ: Phát nguyên từ rặng Ngụy Sơn, kế Đại Lý Hồ trong tỉnh Vân Nam (Tàu), có chiều dài 1200 km, phần chảy trên đất Trung Hoa gọi là sông Ma Lung hay Nguyên Giang. Riêng 500 cây số trong lãnh thổ VN, được gọi là Nhĩ Hà, Hồng Hà hay Sông Thao.

Sông vào địa phận Bắc Việt tại Hà Khẩu (Lào Kai), trước khi ra biển Đông, đã tiếp nhận nhiều phụ lưu quan trọng như sông Lô ở tả ngạn. Sông này còn có tên là Thanh Giang, cũng phát nguyên từ bên Tàu và chảy vào VN tại Hà Giang, rồi đổ vào sông Hồng ở Việt Trì. Sông Lô còn có hai phụ lưu là sông Gầm và sông Chẩy thông với hồ Ba Bể.

Sông Đà bên hữu ngạn, cũng phát nguyên từ Vân Nam, chảy vào VN song song với sông Hồng và đổ vào sông này tại Việt Trì. Ngoài ra còn có nhiều sông nhỏ khác, cũng đổ vào Nhĩ Hà như Nậm Pò, Nậm Na, Nậm Mấc, Ngòi Thia, Ngòi Lao ở thượng nguồn. Phía gần biển, có thêm các phụ lưu Sông Luộc, sông Đuống, sông Ninh Cơ, Trà Lý.. Tất cả đã mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng lúa mùa, miền Hạ Du, ngay từ thời Văn Lang lập quốc cho tới bây giờ. Từ Hà Nội lên Lào Kai, xuyên biên giới đi Vân Nam,có con đường sắt được thiết lập từ thời Pháp thuộc, chay song song với tả ngạn sông Hồng, qua những nhà ga Bảo Hà, Trái Hút, Phố Lu.. mang đầy huyền thoại trong kho tàng văn học dân gian, về các câu chuyện 'Ma-Cọp'.

Lào Kai là tỉnh địa đầu của miền tây bắc, chỉ cách Trung Cộng có cây cầi biên giới Cốc Lếu, nên trong cuộc chiến năm 1979, giặc Tàu gần như làm cỏ thành phố, mãi cho tới năm 1991 mới chỉ có 1700 gia đình trở về nhà cũ của mình.. Ngày nay nhờ chương trình du lịch Sapa và nhất là buôn lậu,nên Lào Kai dân số gần 100.000 người. Thị xã nằm ngay trên ngả ba sông Nậm Thị từ Vân Nam đổ vào sông Hồng. Cầu Hồ Kiều dài 200m, ngăn đôi hai nước, bên này là Lào Kai, phía bên kia là thị trấn Hà Khẩu, thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.

Sông ra biền bằng cửa Ba Lạt và Trà Lý ở thị xã Thái Bình. Trước đây khi Trung Cộng chưa xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn của sông chảy trong tỉnh Vân Nam, thì Nhĩ Hà có lưu lượng rất lớn và thay đổi tuỳ theo mùa, từ 300m3/1 giây - 28.000 m3/1 giây nhưng trung bình là 700m3/1giây.. Nước sông dâng cao thường vào mùa mưa, tại Hà Nội có khi dâng cao tới 12m, trong khi mùa nắng mực nước chỉ có 2m.. Từ trước tới nay vùng Hoa Nam và Bắc Phần có nhiều mưa về mùa hè, làm cho mực nước sông Nhị dâng cao rất nhanh. Lúc trước tại Vân Nam, rừng chưa bị đốn để dựng đập nước, nên mùa mưa, phần nào giữ được nước tuôn từ thượng nguồn về.

Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng thì giữ nước ngọt lại trong hồ chứa để mà tưới, trái lại mùa mưa thì mở đập để nước trên sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó, hệ thống đê điền ở miền Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như đê phải đắp cao theo tình hình mực nước, khiến cho đê thường bị vở. Ngoài ra vì bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều phân bón.

Riêng hệ thống sông Thái Bình, dài độ 340km, chảy từ Phả Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa VN. Tuy nhiên vì Sông Nhị có hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Đuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái Bình, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay dòng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hửng từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.

- ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG:

Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây Nam phần: Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mâu. Khu vực này chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt, Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng riêng biệt:

- Vùng phù sa nước ngọt: Từ nguồn sông chính tại Kampuchia, Mekong chảy vào Nam Phần bằng hai nhánh tại Châu Đốc và Hồng Ngự, xuống tận Mỹ Tho, Bến Tre. Khu vực này chiếm một diện tích hơn 1 triệu Ha, phần lớn là vườn cây ăn trái đủ loại, mọc bạt ngàn theo hai bờ sông Tiền và Hậu, cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện. Đặc biệt giữa dòng sông thường có nhiều cù lao lớn nhỏ như Cồn Phụng, Lân, Qui tại Mỹ Tho, cù lao Ông Hổ ở An Giang, cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt-Cần Thơ), cù lao Bình Hòa Phước tại Vĩnh Long..

- Vùng phù sa nước mặn: Chiếm diện tích khoảng 900.000 Ha, bao gồm lưu vực các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau. Đặc điểm vùng này là có nhiều rừng nguyên sinh ngập mặn, nhiều khu vực tập trung hàng ngàn loại chim cò đủ loại tại Vàm Hồ (Ba Tri-Bến Tre), Bạc Liêu hay Chùa Dơi (Sóc Trăng)..

- Vùng bán đảo Cà Mau: Nằm cuối miền Nam nước Việt, rộng chừng 1 triệu Ha và hằng năm được phù sa của sông Hậu, bồi đắp thêm làm cho Mũi Cà Mâu càng lấn ra biển từ 60 đến 80m. Tại đây còn nhiều khu rừng tràm, đước được dùng làm củi đốt từ xưa tới nay Khắp khu vực có nhiều Sân Chim Cò, Cốc hơn 40 loại, sống tại Ngọc Hiển, U Minh, Hòn Khoai. Đây cũng là vựa tôm, cá và đặc biệt là mật ong nổi tiếng của Miền Nam.

- Vùng Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên: Rộng 1 triệu ha, được coi như là những hồ chứa nước thiên tạo, vào mùa sông Tiền-sông Hậu lụt lội, nhờ vào năm miền trũng thấp. Trong số này quan trọng nhất vẫn là Đồng Tháp Mười, với các khu rừng tràm Xẻo Quít (20 Ha), Tràm Chim (2441Ha).. có hơn 141 loài chim sinh sống, nhiều nhất là loài sếu đầu đỏ.

Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Dòng chính) và sông Hậu, được chia thành chín nhánh nhỏ hình rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa, lại tạo thành nhiều cù lao rất phì nhiêu. Trong lãnh thổ VN, phía thượng nguồn, sông Cửu Long làm thành vùng trũng như những hồ chứa nước thiên nhiên trong mùa lụt. Về phía biển, đồng bằng được phù sa bồi đắp cao ráo, thành những giồng để cất nhà cửa, lập vườn cây ăn trái. Dòng sông cho nhiều tôm cá quanh năm, bù đắp phù sa như một thứ phân bón hữu to rất tốt cho đồng ruộng. Toàn vùng, Mỹ Tho được coi là lý tưởng nhất cho nghề nông vì đất đai phì nhiêu, sông rạch đầy tôm cá, người dân làm chơi ăn thiệt, cuộc sống sung túc, tạo thêm dân trí lễ nghĩa với các thú vui nghệ thuật, mà phát triển nhất nếp sống miệt vườn tao nhã qua đờn, ca, hát xướng, thơ ngâm, hò đáp khi chèo thuyền giả gạo.

Sông Tiền Giang chảy ngang qua thành phổ cổ kính Mỹ Tho, trước khi ra biển bằng nhiều nhánh. Giữa những nhánh sông có các cù lao rộng lớn phì nhiêu, làm thành tỉnh Bến Tre nổi tiếng với rặng dừa xanh lơn nhất nước. Trường Trung Học danh tiếng Nguyễn Đình Chiểu tại Mỹ Tho, được coi như là ngôi trường đầu tiên của người Việt tại Nam Phần, trong lúc Sài Gòn mới có ngôi trường Trung học dành cho con cái người Pháp (nay là trường TH.Lê Quy Đôn), lập hồi cuối thế kỷ XIX. Vào năm 1926, Sài Gòn mới có trường TH.Petrus Ký, dành cho người Việt.

Đất Gò Công sát biển, nổi tiếng với Đức Từ Dũ (Mẹ ruột vua Tự Đức nhà Nguyễn), căn cứ chống thực dân Pháp của anh hùng Trương Định (1863). Ngược về phía nam, xuyên QL4 (nay là QL1), trước khi đến cầu Mỹ Thuận (thay thế phà), hai bên đường lẫn bờ sông, nhà cửa san sát, xen lẫn với vườn đủ loại trái cây và đồng ruộng lúa nước xanh um ngút mắt.

Qua cầu, quẹo về hướng biển non 10 cây số, là tới Vĩnh Long, miền đất hiền lành xinh đẹp nằm trên Sông Cổ Chiên, một nhánh của Cửu Long. Chợ tỉnh trải dài theo bờ sông bồng bềnh những giề Lục Bình hắt hiu trong màu phù sa làm cho nước vàng đục. Thành cổ xưa còn đó với cây đa cổ thụ, làm nhớ tới Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông.. người uống thuốc độc quyên sinh để đền nợ nước, kẻ thỉ rời bỏ quê làng chôn nhau cắt rút, dắt díu gia đình ra tận Bình Thuận tị địa vào năm 1867, khi thành Vĩnh Long bị thực dân Pháp đánh chiếm. Gần chợ nay vẫn còn Văn Thánh Miếu được lập ra thờ Khổng Tử, nhưng ngày nay người Việt đến cúng bái, gần như chỉ biết tới Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông mà thôi.

Bên kia sông Hậu là thành phố Cần Thơ, sung túc bề thế và xinh đẹp chỉ thua Thủ đô Sài Gòn. nên xưa nay vẫn được đời xưng tụng là Thủ phủ của Miền Tây-Nam Nam Phần, phát triển ngay từ đầu thế kỷ XX, ngay khi miền Hậu Giang trở thành vựa lúa gạo nuôi sống cả nước. Nhờ vậy mà cả cánh đồng lau sậy, tràm được, cá sấu, muỗi mòng, giữa sông Hậu và Vịnh Phú Quốc, được khai thác, đào kênh, đắp đường, mở mang làng xóm, trù phú như ngày nay. Thời Pháp thuộc, Cần Thơ có Chi nhánh Ngân hàng Đông Dương, Nhà máy Điện lực rất lớn, cung cấp điện cho các tỉnh lân cận. Trường Trung học Công lập Phan Thảnh Giản thành lập từ năm 1926,hơn trăm năm qua đã đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước, trong đó không thể không nhắc tới Nhà Quân Sử nổi tiếng hiện nay tại hải ngoại là Pham Phong Dinh..

Cuối nước Việt, về hướng biên giới,đầu tiên là Cảng Cá,nằm ngay Vàm sông Ông Đốc, qui tụ nhiều tàu đánh cá lớn khắp vùng. Xa hơn là Ngư Cảng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang, nổi tiếng nhất nhì trong nước, ngang hàng với Ngư Cảng Phan Thiết-Bình Thuận. Biển ở đây cạn, nhiều bùn lại nhiều muỗi mòng nhưng ngược lại đầy tôm cá. Ngoài khơi Rạch Giá có hằng trăm đảo thuộc chủ quyền VN, trong đó có Hòn Tre diện tích lớn, dân đông.Kế bên là Hòn Sơn Rái nổi tiếng làm nước mắm cá biển.

Sát biên giới Việt-Kampuchia là Thị Xã Hà Tiên,phong cảnh hữu tình với Đông Hồ, núi Tô Châu, ngôi chợ tuy nhỏ nhưng đây cổ kính. Đối diện là Hải Đảo Phú Quốc, lớn nhất VN, chuyên trồng tiêu, làm nước mắm, ngư nghiệp

Từ Chợ Hà Tiên đi ngược lên dọc theo biên giới có Kênh Vĩnh Tế do Thoại Ngọc Hầu đào vào thập niên 1920, thời Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn. Kênh này như một thủy đạo, nối liền sông Hậu thông ra Vịnh Phú Quốc. Vùng này trũng thấp, đất phèn mặn, nên ruộng đồng hoàn toàn bị ngập, vào mùa lụt do sông Cưu Long dâng cao. Bảy Núi hay Thất Sơn bao gồm nhiều hòn lớn nhỏ, chạy dài trên 30km, mà đỉnh cao nhất là ngọn Núi Cấm (700m),mây trắng che mịt mù vào mùa đông, trong nuí có nhiều hang động thiên nhiên, trên sườn mọc đầy sắn, đậu, hoa quả và các cây thuốc Nam.

Kế cận là Thị Xã Châu Đốc, nổi tiếng ba miền là Miểu Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, được xem là chốn linh thiêng, quanh năm có rất nhiều thiện nam tín nử tới hành hương cúng kính.. Chợ Châu Đốc xây trên bờ sông Hậu, dưới sông tấp nập ghe thuyền. Phia bên kia sông có nhiều Làng Chàm Hồi giáo, chuyên sinh sống bằng ngư nghiệp và nghề dệt dệt tơ lụa.

Thành phố Long Xuyên là thủ phủ của tỉnh An Giang, lúa gạo sung túc, đang phát triển mạnh nghề nuôi cá bè trên sông Hậu. Đây là miền đất được mở mang sớm nhất ở Nam Phần, ngay từ năm 1700 khi Thống Suất Nguyễn Hửu Cảnh, được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, tới đây cũng cố biên giới, vì vậy các lưu dân từ Thuận Quảng theo chân đoàn quân vào đậy lập nghiệp rất đông đảo. Tại An Phú, đầu nguồn của sông Hậu trong tỉnh An Giang, nay còn sót lại Búng Bình Thiên, có diện tích rộng hơn 30.000 m2, là một vùng đất bị bỏ hoang vì nước sâu không thể trồng lúa được. Láng mọc đầy Sen và cỏ dại, là nơi chung sống của đủ loài thủy tộc, từ cá tôm, cho tới rắn rùa, sống dưới rừng củ co, bông súng, rau tràng.. cảnh sắc không gì thay đổi như từ hai ba thế kỷ trước. An Phú còn có tới 4 chợ trời biên giới và đông đảo người Chàm theo Hồi giáo cư ngụ.

Sa Đéc hiện nay chỉ là thị trấn, trong khi Cao Lãnh trở thành thị xã tỉnh lỵ của Đồng Tháp. Nằm bên hửu ngạn sông Hậu, Sa Đéc là vùng đất cổ, nổi tiếng với những vườn cây ăn trái của Nam Phần,nhờ khí hậu trong lành so với các tỉnh khác. Chợ Sa Đéc đẹp, vùng lân cận nổi tiếng về sản xuất hoa hồng. Trên con đường từ chợ tới Bắc Vàm Cống, có hai làng nghề truyền thống là Nem Lai Vung và Chiếu Lấp Vò. Ngoài ra tại làng Định Yên, còn có một Chợ chiếu độc đáo, mà người điạ phương gọi là ' Chợ Ma hay Chợ Âm Phủ ', vì chợ chỉ nhóm họp hằng đêm từ 12 giờ khuya tới hừng sáng thì dẹp. Đây là truyền thống đã có từ 100 năm qua, chuyên bán sĩ và lẽ hai loại chiếu ' Hà Niên'là loại chiếu bông vuông nhỏ và loại ' Vẩy Ốc ' màu trắng, bông được in bằng khuôn, làm rất công phu, để lâu không bị bay màu và lên mùi mốc.

Đồng Tháp Mười là vùng đất trũng, nhiều phèn, vào mùa lụt nước sông dâng cao tới 4m, cá tôm nhiều nhưng muốn có phải mua sắm dụng cụ mới khai thác được.. Tại đây còn có một loại lúa trời, mọc tự nhiên, ăn được nhưng không ngon. Trước đây Đồng Tháp Mười coi như một đồng cỏ khổng lồ, ngày nay nhiều khu vực đã được khai khẩn để trồng lúa. Dân cư tứ xứ tới đây làm ăn rất đông, nhất là khu vực tiếp xúc với hai con sông Vàm Cỏ Đông và Tây.

Tại những tỉnh về phía Nam, nơi hạ nguồn của sông Hậu như Trà Vinh, Sóc Trăng, đồng bằng được phù sa bồi đắp, thành những giồng đất cao ráo, không bị úng lụt vì nước rút ra biển rất nhanh. Đây là địa bàn cư trú cũa người Việt gốc Khmer và người Minh Hương (Tiều Châu chiếm đa số). Ngoài những cánh đồng lúa, ruộng muối cò bay thẳng cánh ở Bạc Liêu, dân địa phương còn trồng nhiều hoa màu phụ như cải, dưa hấu, cây ăn trái.. Với người Việt gốc Khmer, thì thu nhập chính vẫn là cấy lúa ngắn hạn loại Thần Nông, trên đất cao không cần nhiều nước.

3 - TRUNG CỘNG GÂY TAI HỌA TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG:

Từ trước tới nay, các tỉnh từ Hà Tĩnh vào tới Quảng Trị, thuộc Miền Trung nước Việt, luôn luôn hứng chịu thảm trạng chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời tiết, thêm vào đó Rặng Trường Sơn lấn ra sát biển, làm cho đồng ruộng cằn khô vì cát lẫn với đá núi. Cho nên trong dân gian đã có câu ca dao 'Trời hành cơn lụt mỗi năm, mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm. Lời than thở này bây giờ đã vượt biên giới và trở nên thân quen đối với đồng bào miền Châu Thổ Sông Cửu Long, vì năm nào cũng phải cật lực đối phó với tình trạng lụt lội hay hạn hán, đã trở nên thường trực trong cuộc sống của mọi người.

Trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt, tổ tiên ta bao đời vừa phải ngăn chống giặc ngoại xâm, đồng thời cũng luôn luôn diễn ra cuộc chiến sống chết chống thiên tai bảo lụt, khắp ba miền Trung, Nam, Bắc., mỗi miền có một địa hình, thời tiết khác nhau nên cách phòng chống cũng vô cùng phức tạp.

Dựa vào tài liệu của bao đời lưu lại, ta thấy người xưa đã biết rất rõ ràng phương pháp trị thủy. Miền Trung điạ hình hẹp và dốc, sông ngắn nên lụt lội dâng lên rất mau., phải luôn đề phòng để kịp thời phòng chống. Ở Bắc phần, đồng bằng thấp hơn mực nước sông vào mùa lụt từ 5m ố 7m, vì vậy cần phải đắp đê rất cao để ngăn lụt. Hằng năm vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn bên Tàu chảy về, cộng thêm nước từ miền Trung Du và đồng bằng, lại còn thủy triều và nước biển dâng cao, do ảnh hưởng của bảo, là nguyên nhân mà các thời đại VN trong lịch sử, phải đắp đê ngăn ngừa lụt ở miền Bắc.

Năm 886 sau Tây lịch, miền Bắc đã bắt đầu khởi công xây dựng hệ thống đê điền, doc theo các con sông Hồng,Thái Bình và nhiều con sông quan trọng khác.. Hiện nay qua báo cáo, hệ thống đê tại Bắc Việt dài tới 3500 km,tổng khối lượng đất đá xữ dụng là 400 triệu m3, gồm 260 bờ kè, 800 cống thoát nước. Những con đê với bờ cao, dốc thoải,thảm cỏ xanh rờn, uốn lượn hai bờ sông, đã vẽ nên bức tranh quê làng VN, thật là êm đềm hạnh phúc. Khắp nơi chen chúc ruộng đồng, vườn tược và nhà cửa đình làng, ân hiện sau lũy tre xanh, đã nói lên thể phách văn minh văn hiến của Dân tộc Hồng-Lạc.

Từ khi Trung Cộng lén lút xây dựng các đập thủy diện trên hệ thống sông ngòi chảy qua tỉnh Vân Nam vào năm 1971, thì đại họa cũng bắt đầu đổ ập một cách âm thầm vào non nước VN, qua cảnh dòng sông không còn êm đềm chảy, mà dâng cao đục ngầu, mang đầy rác rưởi, gổ tre, khắp nơi đầy những vực xoáy hung dữ. Năm 1971, mực nước sông Hồng dâng cao tới 14,8 m,gần như lưu lượng nước (80-88%) đổ vào Sơn Tây, trung tâm của đồng bằng Bắc Việt. Từ năm 1920, bờ đê tại Hà Nội chỉ mới cao 11,5m. Năm 1932 là 13,3m và hiện nay đã cao tới 15-15,5m. Ngoài ra còn hy vọng vào các hồ chứa sông Đà, Lô, Gầm, Chảy và Ba Bể.. để hạ bớt mực nước lụt. Câu chuyện thần thoại 'Sơn Tinh Thủy Tinh' thời Tổ Hùng dựng nước, được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hồi tiền chiến, vẽ lại bằng bức tranh thơ, đã nói lên cuộc chiến quyết liệt của Dân Tộc Việt,trước thảm nạn lụt lội và giặc thù truyền kiếp, cả hai đều xuất phát từ nước Tàu. Vậy mà từ Hồ Chí Minh tới các chóp bu kế tiếp sau này, lúc nào cũng to miệng bưng bợ Trung Cộng, rằng là đồng chí đồng rận, chủ nghĩa xã hội anh em, môi hở răng lạnh, sông liên sông núi liền núi.. cho nên VC mới đem không biết bao nhiêu đất đai biên giới, biển đảo để mà dâng cúng cho quan thầy,cũng đâu có gì lạ.

Đồng bằng sông Cửu Long trái lại bằng phẳng, cho nên trước đây người dân bản địa có tập quán là cứ sống chung với lũ lụt cho tới khi nước rút hết, chứ không làm gì cả. Ta biết Sông Mekong tuy phát nguồn tận Tây Tạng và chảy qua các nước Miến Điện, Thái Lan, Lào, Kampuchia mới vào Nam VN. Quan trọng nhất, là dù phần cuối của sông Mekong, với tổng diện tích tự nhiên chỉ có 3,9 triệu ha, chiếm 5% toàn bộ lưu lượng của cả dòng sông. Trong lúc đó hằng năm, miền tây nam Nam phần, phải nhận của sông Cửu Long, hơn 460 tỷ nước, cùng 200 triệu tấn phù sa, tạo nên miền châu thổ phì nhiêu sông Tiền, sông Hậu ngày nay.

Lãnh thổ VN, chỉ có địa hình Nam Phần bằng phẳng, thấp không có đồi núi nhiều (trừ núi Bà Rá, Bà Đen ở miền Đông-Bắc,Thất Sơn ở biên giới phía Tây). Nên dù khắp nơi có đầy kênh rạch, sông ngòi nhưng vào mùa nước lụt, vẫn không chịu nổi ảnh hưởng của thủy triều và lượng nước tuôn về từ thượng nguồn, khiến cho lòng sông không tải kịp nước ra biển, gây nên hiện tượng úng ngập tràn lan kéo dài hằng tháng.

Trước đây khi dòng sông Cửu Long chưa bị biến thái vì các đập thủy điện trên thượng nguồn tại Trung Cộng, Thái Lan, Lào.. thì hằng năm nước ngập, đã mang đến thật nhiều phù sa bồi đắp cho miền châu thổ, làm cho Mũi Cà Mau lấn thêm đất ra biển, sông rạch có thêm nhiều tôm cá và đủ cac loại thủy sản.. Từ năm 1961 tới 1994, miền Tây Nam Phần đã bị sáu trận lụt lớn, làm ngập 1.828.000 Ha ruộng, kéo dài từ 3-6 thang mới rút hết nước.

Thật ra vấn đề lụt lội tại Nam Phần, đã được người Pháp quan tâm từ năm 1926, khi Đông Dương là thuộc địa của thực dân. Qua những hồ sơ lưu trữ, ta biết tới nay vùng này đã bị 31 lần lụt lội lớn nhỏ. Quan trọng nhất là năm 1966, vào mùa lụt, nước sông Cửu Long tại Tân Châu lên tới 5,28m (trước đó mực nước tối đa là 4,6m), đã làm cho toàn thể đồng bằng miền Tây chìm ngập trong biển nước. Trước đây người ta thường có quan niệm về sự lụt lội của Nam phần, là điều phải xãy ra theo chu kỳ qui định của thiên nhiên trong 4 năm. Đó là những giai đoạn 1937-1940, 1946-1949.

Nhưng giai thoại trên, kể cả lụt lội đem phù sa bồi đắp cho đồng ruộng, coi như đã chấm dứt từ năm 1980, nguyên do vì Trung Cộng đã phá vở gần như tất cả những môi trường thiên nhiên tại thượng nguồn nhưng VN lại lãnh đủ hậu quả, nhưng cứ đem hiệu ứng nhà kính, đã gây ra sự thay đổi thời tiết, khí hậu, để mà đổ thừa hay che dấu sự thực.

Hiện nay có tới 12 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cưu Long, chiếm diện tích 3,9 triệu Ha nhưng vùng lụt lội hằng năm thường tập trung vào 7 tỉnh đầu nguồn là An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang và Long An. Lụt lội hằng năm, làm cho 1 triệu Ha ruộng bị chìm ngập dưới nước sâu trong nhiều tháng, gần 10 triệu đồng bào địa phượng bị thiệt hại, từ nhân mạng tới vật chất. Lụt bây giờ ngập sâu và kéo dài hơn trước, lại đến sớm nhưng rút muộn, ảnh hưởng nặng nề tới nông vụ vốn là chén cơm manh áo bao đời của tầng lớp cư dân miệt vườn. Mặc khác lụt lớn, làm cho đất đai bị mòn xói, phá vở các công trình xây dựng hai bên bờ sông, kể cả đường xá kênh rạch. Riêng trận lụt năm 1996, làm cho 217 người chết trong đó có tới 162 trẻ nít, gây tổn hại tới 2182 tỳ tiền Hồ.

Sông Mekong khi chảy tới Kampuchia, trong tỉnh Kompong Cham thì lòng sông không đủ sức chuyển vận lưu lượng nước từ thượng nguồn, nên phần lớn ruộng đất trong vùng cũng bị ngập nước nhiều tháng, từ tháng 7-12 hằng năm. Nhờ nước tràn bờ nên lưu lượng giảm. Thêm vào đó tại NamVang, sông Cửu Long có một chi nhánh lớn là sông Tonle Sap, đã dẫn nước về chứa trong Biển Hồ có thể tích tới 80 tỷ m3.Nước này lại chảy ngược ra sông chính vào mùa khô.

Cũng tại Kompong Cham, sông Cửu Long lại chia thành hai nhánh: Nhánh chính tới Neak Luong và chảy vào VN tại Tân Châu gọi là Tiền Giang. Nhánh Phụ còn gọi là sông Bassaac vào Châu Đốc, đó là sông Hậu và ra Đông Hải bằng chín cửa nhưng nay cửa Ba Lai tại Bến Tre đã bị cát biển và phù sa bít kín. Tại đầu nguồn, vì lưu lượng nước quá mạnh, nên dòng sông thường bị tràn bờ, đã tạo nên vùng nước úng thủy Đồng Tháp Mười và Khu trũng Tứ Giác Long Xuyên. Ngoài ra vùng này còn phải tiếp nhận một khối lượng nước phèn, hơn 77% từ Kampuchia tràn sang trong mùa lụt.

Từ năm 1961 tới nay, miền Tây Nam Phần đã bị nhiều trận lụt rất lớn và thiệt hại, vào các năm 1961-1966-1984-1991-1994 với mực nước dâng cao từ 4,67m ố 5,28m. Năm 1978 tại Tân Châu, nước lên cao 4,88m làm 87 người chết, gây hư hại 307.000 Ha lúa và 9000 căn nhà. Năm 1994 mực nước lụt lên tới 5,11m làm chết 407 người, gây tổn thất 283.000 Ha lúa, 2799 căn nhà bị nước cuốn, thiệt hại tới 2284 tỷ tiền Hồ.Năm 1995 lại lụt, làm 150 người thiệt mạng, cuốn trôi nhiều nhà cửa và ruộng lua.

Nguy cơ trùng trùng nhưng Đảng chẳng những chẳng giải thích một lời nào về thảm họa vì đâu nên nổi, trái lai vẫn cứ ru ngủ đồng bào nạn nhân bằng luận điệu tuyên truyền như Mùa Nước Nổi Hay Sống Chung Với Lũ.. nhờ đó mà đồng ruộng Miền Nam được kéo dài tuổi trẻ, vì có sự bồi đắp của phù sa. Trong khi đó,thực chất gần như đất đai màu mở, cá tôm thủy sản quý của thiên nhiên ban cho các dòng sông Hồng Hà, Mekong.. đã bị chuổi đập lớn nhỏ trên 14 cái, được xây dựng tại Vân Nam giữ lại. Kế tiếp những gì may mắn thoát được, lại bị kẹt ở chuổi đập của Lào-Thái. Cho nên ngày nay, Kampuchia và VN chỉ còn nhận đủ những thứ cặn bã, trong đó có hơn 80% các quặng, hóa chất.. được thải từ hằng trăm nhà máy bên Tàu, đổ xuống dòng nước, tống ra biển, như chúng đã làm trên sông Dương Tử, mà chính báo chí tại Trung Cộng, vừa to tiếng tố cáo.

Khôi hài nhất là bọn Tàu trắng Á Châu và các nước Tây Phương, trong cái gọi là Ủy Ban hợp tác và bảo vệ sông Mekong, lúc nào cũng to miệng về những chuyện trên mây,mục đích vẫn là những dự án đầu tư kiếm lời, chứ đâu thấy ai nhắc tới hiểm họa, khủng bố mà Trung Cộng đã gây cho các nước ở hạ nguồn sông Cửu Long.

4 - ĐỒNG RUỘNG MIỀN NAM KÊU CỨU VÌ NẠN XÂM NHẬP NƯỚC MẶN:

Từ năm 1980 tới nay, các sông ngòi ở VN hầu hết đều biến đổi kỳ lạ: Mùa mưa thì tràn nước gây nên lụt lội, trái lại về mùa nắng nước thiếu gây nên cảnh khô hạn. Tại Nam Phần, chính việc thiếu hụt nước tại các sông, đã liên quan tới sự tấn công, xâm nhập của nước mặn từ biền tràn vào sông, trong các đợt thủy triều.

Đã có trên hằng triệu Ha lúa và hoa màu tại các tỉnh hạ nguồn sông Cửu Long, bị nước mặn xâm nhập khốc liệt, vừa gây tổn hại tới thu hoạch cũng như làm cho mọi người trước nguy cơ thiếu nước ngọt để ăn uống,tắm giặt. Đây là thảm họa chỉ mới xãy ra tại Nam Phần từ sau thang 5-1975, hiện tượng nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa các tỉnh sát biển, nơi cửa sông Cửu Long. Sở dĩ có tình trạng trên,vì ảnh hưởng của hai yếu tố từ lưu lượng nước tại thượng nguồn và vùng hạ lưu, cộng thêm lượng nước mưa cũng như sự bốc hơi vào mùa nắng.

Thông thường hằng năm, từ cuối tháng 4-5, nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa, khiến cho nước ngọt tại các kênh rạch không còn dùng được để mà tưới ruộng lúa và hoa quả, gây nên cảnh hạn hán thất thu. Theo định luật khoa học, thì tiêu chuẩn độ mặn cần có trong lượng nước ngọt để phục vụ cho nông nghiệp là 4%. Trong khi đó nguồn nước lợ (nước ngọt đã bị nước mặn xâm nhập), độ mặn chỉ có 2% nhưng cũng chỉ để tưới ruộng tạm thời khi không còn một lối thoát nào khác. Nguyên do vì thứ nước lợ này, chỉ có tác dụng cứu khô ngắn hạn, nếu để lâu, nước bốc hơi làm cho nồng độ muối trong ruộng tăng lên cao, làm chết hết lúa.

Do phần lớn đồng ruộng ở miền Nam, không có hệ thống bờ ruộng và kè đê tốt, nên đã lãnh đủ sự xâm nhập của nước mặn chảy vào ruộng,với số lượng bị ảnh hưởng lên tới 1,1 ố 1,3 Ha theo báo cáo của các cơ sở Nông Nghiệp. Ngoài ra nước mặn còn gây tổn hại rất lớn đối với những đồng bào nuôi các loại thủy sản như tôm, cá, ốc.. để xuất cảng.

Nạn nước mặn xâm nhập đồng ruộng được đánh giá trầm trọng, bắt đầu từ năm 1977, trên sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Tại đây nước mặn chảy sâu vào nội địa từ 8-12km, nhiều hơn những năm trước. Trên sông Vàm Cỏ Tây, nước mặn theo thủy triều vượt qua Tuyên Nhơn về hướng thượng nguồn hơn 30km và kéo dài tới 10 ngày mới rút. Tại Mỹ Tho, nước mặnvào sông Tiền ít hơn và chỉ ở lại có 4 ngày. Nhưng vì nhu cầu nước tuới, đồng bào đã vô tình giúp nước mặn tràn lan nội địa. Những năm 1985-1986, vùng Tuyên Nhơn-Đồng Tháp, tình trạng nước mặn xâm nhập có giảm so với các năm trước, nhờ con kênh Hồng Ngự mới đào, dẫn nước Vàm Cỏ Tây thông qua sông Tiền. Bắt đầu từ thập niên 1990 Đồng Tháp Mười được khai thác triệt để diện tích ruộng lúa, nên lượng nước ngọt dùng để tưới trở thành thiếu thốn, tạo điều kiện cho nước mặn càng ngày càng dâng cao, xâm lăng tới tăp vào sâu trong nội địa.

Năm 1993, nước mặn theo sông Vàm Cỏ Tây, lên tới thượng nguồn và ở lại Tuyên nhơn tới 50 ngày. Trên Tiền Giang, do nhu cầu xữ dụng quá nhiều nước, nên ranh giới giữa nước ngọt và nước mặn cũng thay đổi từng năm. Tại Mỹ Tho, nước mặn đã vượt qua vài cây số và nằm lai tới 17 ngày mới rút ra biển. Năm 1998, tình trạng trên lại tái diễn một cách khốc liệt. Nguyên do vì mùa nước nổi tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1997, diễn ra thật bất thường, nước từ thượng nguồn đổ về rất ít và rút đi rất sớm Tình trạng trên gây ra khô hạn kéo dài, tạo điều kiện để nước mặn dâng lên cao và ùn ùn kéo vào sông Vàm Cỏ Tây, chảy sâu vào nội địa tới 15-20km.

Trên sông Tiền, sông Hậu, Cổ Chiên tuy lưu lượng có kém so với các năm trước, nhưng vẫn còn sức mạnh, làm giảm thiểu phần nào sự xâm nhập của nước mặn, tuy nhiên cũng đã gây thiệt hại cho hơn 200.000 Ha ruộng lúa. Trong khi đó, vùng tứ giác đầu nguồn Long Xuyên và phía Tây sông Hậu, lại bị ảnh hưởng rất nặng bởi sự xâm nhập của nước mặn, vào sâu trong nội địa từ 16-20 km và ở lại hơn 3 tháng.

Sự xâm nhập của nước mặn vào các sông ngòi miền Nam, là nguyên nhân chính làm các nhà máy đường phải đóng cửa ngưng hoạt động, vì nước ngọt từ năm 1999 đã tăng lên 30.000/1m3 tiền Hồ. Từ đây nước mặn tấn công vào đất liền sớm hơn mấy năm trước. Tóm lại, không riêng gì Tuyên Nhơn, Mỹ Tho.. mà hầu như các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long như Vàm Mỹ Hoá (sông Hàm Luông-Bến Tre), Trà Vinh,, An Thuận, Bến Trại, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ đều bị nước mặn xâm nhập phá hoại tàn khốc và không có triệu chứng nào, báo hiệu thảm họa trên sẽ ngừng hay chấm dứt. Thêm vào đó, từ mấy năm nay thời tiết lại thay đổi đột ngột, gió chướng thổi manh hơn mấy năm trước, dồn nước mặn vào sông nhiều hơn, đồng lúc thủy triều tại cửa sông hoạt động thêm dữ dội, trong khi lưu lượng dòng sông từ thượng nguồn chảy xuống càng lúc càng yếu dần, không đủ triều cường giữ giới hạn giữa hai con nước như mấy thập niên trước.

Hởi ơi viết chuyện nước mà đau lòng với nước'

'Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mõi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta'
(Bà Huyện Thanh Quan)

Hay 'Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn'
(Tản Đà)

Vẽ hửng hờ và êm ả của giòng sông, vào lúc chiều tà hay khi trăng treo trên đầu núi, không biết Nguyễn Du tiên sinh sống lại, đứng trước những thảm họa trên,đang ào ạt trút xuống những giòng nước thân thương đó, từng phút, từng giây, từng trong hơi thở của nhip sống Dân Tộc Việt, có còn đủ cảm hứng để hạ bút đề thơ:

'Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, biết là về đâu'-/-

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2016
MƯỜNG GIANG

1956- 2016: kỷ niệm 60 năm Giai phẩm, Nhân văn

Đặng Tiến
3/23/2016


LTS. Rất nhiều sách báo đã viết về vụ đàn áp những văn nghệ sĩ chủ trương tạp chí “Nhân văn” và các “Giai phẩm” văn thơ ở Miền Bắc Việt Nam năm 1956, tới nay là đúng 60 năm. Góc cạnh chủ yếu trong phần lớn các bài viết là sự đàn áp trí thức trong một chế độ toàn trị. Điều này không sai, và bài viết mà chúng tôi đăng lại mới đây của nhà văn Lê Hoài Nguyên, tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa), nhấn mạnh tới khía cạnh “NVGP trước hết là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học đòi hỏi dân chủ hóa ở miền Bắc Việt Nam năm 1954-1960” góp thêm những chứng từ trong chiều hướng đó của một người trong bộ máy. Tuy nhiên, có phải đó là khía cạnh duy nhất (hay duy nhất đáng lưu ý) về vụ án văn học – chính trị này? Kinh nghiệm cho thấy ta luôn luôn cần cảnh giác với những thông điệp mà Đảng Công sản muốn đưa ra, nói một chuyện nhưng đằng sau lại ẩn giấu nhiều chuyện khác, thường là quan trọng hơn. Bài viết dưới đây của Đặng Tiến phân tích vụ án dưới một “góc nhìn khác” (mượn chữ của nhà báo Trương Duy Nhất), gợi cho người đọc những câu hỏi lý thú liên quan tới cuộc tranh giành quyền lực ở chóp bu ĐCSVN, những câu hỏi không phải không liên quan tới tình hình đất nước hiện nay. Bài viết đã được đăng trên mạng Talawas năm 2007, tác giả hiệu đính lại và gửi Diễn Đàn nhân kỉ niệm 60 năm vụ án. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

***

Giai phẩm và Nhân văn là tên hai ấn phẩm khác nhau. Giai phẩm là một tuyển tập thơ văn, phát hành đầu năm 1956 tại Hà Nội, ra được năm kỳ; Nhân văn là một tờ báo không định kỳ, xuất bản cuối 1956, ra được 5 số. Nhiều người có tên trong tuyển tập trước hợp tác với tờ báo sau. Nhưng cụm từ “Nhân văn Giai phẩm” ta thường nghe, tự thân nó là một thành ngữ vô nghĩa.



Báo Nhân Văn và Giai phẩm 1956

Đảng quyền Hà Nội, cuối năm 1956 đã gôm hai tên lại với nhau thành một bản án văn học và chính trị. Thời đó “bọn“, “phần tử ” Nhân văn-Giai phẩm là một lời buộc tội nặng nề. Nhưng đồng thời ở miền Nam – khoảng 1960 – và ở toàn quốc cùng với hải ngoại sau này, Nhân văn-Giai phẩm, ngược lại, là một danh xưng cao đẹp, tượng trưng cho tầng lớp trí thức tài năng, sáng suốt, dũng cảm và bất khuất trước cường quyền và bạo lực.



Lê Đạt


Nguyễn Hữu Đang


Trần Dần

Câu chuyện nay đã đúng 60 năm, cái gút văn học đã từ từ được tháo gỡ: các tác giả được khôi phục, được xuất bản tác phẩm, được giải thưởng. Trần Đức Thảo được giải thưởng Hồ Chí Minh từ 2000; Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm được Giải thưởng Nhà nước. Phải chăng là “vụ án” văn học đã được xếp lại? Thế sao trong tang lễ Nguyễn Hữu Đang , 10/2/2007, đại diện chính quyền, trong điếu văn còn nhắc lại “sai lầm Nhân văn Giai phẩm“? Phải chăng là thành ngữ Nhân văn Giai phẩm có nhiều nội hàm khác nhau?

*

Tôi khởi thảo bài này, đúng lúc báo mạng talawas ngày 20-3- 2007, đăng bài của nhà văn Nhật Tiến cùng một đề tài. Anh cũng mờ mờ nhân ảnh như tôi, nhưng dũng cảm hơn, và kết luận về việc Hoàng Cầm và Lê Đạt nhận giải thưởng: “Phải chi các ông tuyên bố được rằng: sẵn sàng nhận giải với điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam minh bạch công nhận đã sai lầm trong công cuộc đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm“.

Tôi cùng một suy nghĩ với anh, nhưng không dám ngay thẳng đòi hỏi như thế. Vì giá dụ lỡ như hai ông ấy, trong thâm tâm, không cho rằng Đảng sai lầm, thì sao?

Vì không hiểu rõ nội vụ, tôi thử đưa ra một “giả thuyết thao tác”, bắt đầu bằng một hình ảnh: các nhà văn trong hai đợt Giai phẩm và Nhân văn là nạn nhân của một hiện tượng đông đá (glaciation), từ nước , hay tuyết, đông đặc thành băng giá. Nôm na là: Giai phẩm và Nhân văn là một phong trào văn học tự phát năm 1956 nhưng gặp phải lúc Đảng Lao động đang chuyển từ chính sách mềm dẻo sang một chế độ chuyên chế cứng rắn, từ 1957, để chuẩn bị thống nhất đất nước bằng vũ lực. Nghĩa là, vừa phải trực diện với Mỹ và khối tư bản, vừa phải đối phó với đàn anh Liên Xô sau diễn văn Khrushchev, chủ trương Sửa sai, Xét lại và Chung sống hoà bình; và đàn anh Trung Quốc chống hữu khuynh, chống xét lại và phát động chính sách Đại Nhảy vọt.

1956, năm bản lề cho Liên bang Xô Viết và các Đảng Cộng sản toàn thế giới [1], sử gia Pierre Brocheux đã viết như thế để mở đầu cho chương, rất uyên bác, ông dành cho Nhân văn-Giai phẩm (trong cuốn sách viết về Hồ Chí Minh, xem chú thích [1] – DĐ). Toàn thế giới căng thẳng như vậy, Việt Nam còn có nghịch cảnh riêng, nhức nhối hơn: dự án thống nhất đất nước trù tính vào tháng 7-1956 theo Hiệp định Genève đã không thành. Chính quyền Hà Nội quản lý miền Bắc cầm chừng trong hai năm 1955-1956 về mặt chính trị, xã hội, văn hoá lẫn kinh tế, đến thời điểm nào đó, phải dứt khoát. Thậm chí Lưu Thiếu Kỳ, trước Đại hội Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 25-3-1963, còn cho rằng “Hồ Chí Minh xưa nay vẫn là tay hữu khuynh (…) Sau chiến cuộc (1954) hắn vẫn còn chần chờ, không chọn chế độ tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Chính chúng ta (Trung Quốc) phải quyết định cho hắn” [2] . Ngày 12-11-1954, Phạm Văn Đồng hỏi Jean Sainteny: “Ai bảo các anh chúng tôi là chế độ cộng sản?” [3]

Brocheux còn viết: “Cùng một giai đoạn này, Trung Quốc và Bắc Việt Nam thiết lập chế độ Sta-li-niêng, độc tài đảng trị, tập thể hoá nông thôn, áp dụng phương pháp toàn trị để tiêu diệt đối kháng, đàn áp mọi lệch lạc trí thức và văn nghệ, phát triển kinh tế theo kế hoạch nhà nước. Sự trùng hợp về niên biểu giữa các biến cố xảy ra cùng năm 1956 hiển nhiên đến độ chúng ta khó bề phủ nhận quan hệ nhân quả, hiệu ứng ảnh hưởng, dây chuyền và phản động lực, dù Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp có giảm bớt hay phủ nhận. Trả lời ký giả Tibor Mende hỏi tự nhiên: khi sửa sai việc cải cách ruộng đất, ‘Việt Nam có tham dự vào cuộc xáo trộn trong thế giới cộng sản không?’ Hồ và Giáp trả lời lấp lửng: chỉ có những yếu tố địa phương quyết định đường lối”. [4] Như vậy, trong “các yếu tố địa phương”, đặc biệt của Việt Nam, phải nói quyết tâm thống nhất đất nước là quan trọng hàng đầu.

Brocheux là sử gia ngoại quốc, lại không phải là dân văn nghệ, có thể khách quan hơn chúng ta, người chìm trong cuộc, dễ chủ quan.

Thời gian này có giáo sư Pháp Gérard Tongas, sống tại Hà Nội (1953-1959) và viết sách dày cộm tựa đề dài dòng Tôi đã sống trong Địa ngục Cộng sản Bắc Việt Nam và đã chọn Tự do. Ông nhận định: “Chế độ cộng sản chỉ mới được thiết lập tại miền Bắc Việt Nam từ tháng chạp 1956” [5] . Ông nói thì chúng ta phải tin, vì một người ngoại quốc, trong một tác phẩm chống cộng thẳng thừng như vậy không có lý do gì biện hộ cho Việt Minh và cộng sản. Ông dành khoảng 15 trang cho phong tràoNhân văn-Giai phẩm (tr. 329-343). Theo ông, thì từ tháng 2-1957, báo cáo của Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội đã vạch đường lối để cộng sản hoá miền Bắc và chuẩn bị thống nhất với miền Nam, rồi xích hoá luôn phía bên kia vĩ tuyến (tr. 334).

Ông còn mách, trong năm 1956, khoảng tháng 10-11 (thời điểm báo Nhân văn) có một luồng gió thông thoáng thổi qua Hà Nội: Đức cha Trịnh Như Khuê, Tổng Giám mục, được tự do đi lại và đã thừa cơ hội thăm các họ đạo. Đến cuối năm 1958, các tu sĩ người nước ngoài mới dần dần bị trục xuất vì “hoạt động chính trị phản động chống chế độ”. [6]

Về 1956, “năm bản lề“, sử gia Brocheux tường trình rất căn cơ, lý luận khúc chiết. Ông nhắc lại báo cáo mật ngày 24-2-1956 của Khrushchev, cuộc nổi dậy tại Poznan, Ba Lan tháng 6-1956, phát biểu của Chu Ân Lai bênh vực Ba Lan – xâm phạm độc quyền quốc tế của Liên Xô – cuộc nổi dậy của Budapest ngày 23-10-1956 bị Hồng quân đàn áp, và Mao Trạch Đông, có lẽ e sợ truyền nhiễm, đã ủng hộ Liên Xô. Sau đó là chính sách Trăm hoa đua nở, 1956 ở Trung Quốc, có lẽ để giải quyết những khó khăn nội bộ. Và ông dè dặt: “Tiếc rằng chúng ta không biết rõ rệt ảnh hưởng tại Việt Nam của báo cáo Khrushchev mà phái đoàn đại biểu đã mang về”. [7]


Tố Hữu

Thì nay ta có lời giải đáp của Tố Hữu, do Đặng Phong trích dẫn [8] :

“Bản báo cáo của Khrushchev ở Đại hội XX đã gây thêm khó khăn cho Đảng ta và giúp cho bọn phản động ở miền Bắc thừa cơ gây rối loạn trong xã hội. Chúng đả kích chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi xét lại vai trò lãnh đạo của Đảng, thậm chí đòi lật đổ chính quyền cách mạng!

Lợi dụng sự bất lực của cơ quan quản lý, chúng xuất bản báo Nhân văn, các tập Giai phẩm, tập hợp một số bất mãn và bọn thù địch giấu mặt. Nguy hiểm nhất là bọn gián điệp đội lốt ‘học giả’ nước ngoài đứng đằng sau bày mưu kế… Một số ít anh em văn nghệ trí thức vốn có những quan điểm lệch lạc, dao động trước tình hình khó khăn trong nước và trên thế giới, cũng ngây thơ chạy theo chúng… Báo Nhân văn và các tập Giai phẩm được lưu hành nhiều nơi, kể cả đưa vào Nam và ra nước ngoài.“[9]

Lời lẽ Tố Hữu cần được giải thích:

Báo cáo Khrushchev lúc đó không nhiều người biết. Trong nhóm Giai phẩm và Nhân văn, Lê Đạt không biết, Nguyễn Hữu Đang có biết [10] . Nhưng đối với đảng quyền, rõ ràng là trầm trọng.

Những rối loạn trong xã hội nói trên đã xảy ra tại các vùng Công giáo Nghệ An, Nam Định, vài nơi đồng bào miền núi, tại nông thôn có nơi phản ứng lại việc Cải cách rộng đất. Trường Chinh thừa nhận những điều này trong báo cáo 13-3-1958, và cho rằng do cơ hội diễn văn Khrushchev [11] .

Còn “gián điệp đội lốt học giả“, ám chỉ Maurice Durand, giám đốc trường Viễn đông Bác cổ, bị trục xuất thời đó. Phải chăng vì ông đã “cho mượn” báo France Observateur và Les Temps Modernes trình bày tình hình thế giới. Trong những người được đọc các báo này, có Trần Đức Thảo. Nhưng rõ ràng là đảng quyền đã dao động trước các cuộc nổi dậy ở Ba Lan, Hungary và nhất là trước chính sách Xét lại, Chung sống hoà bình mà Khrushchev mới đưa ra.

Trong báo cáo 13-3-1958 nói trên, Trường Chinh đã lên án báo Nhân văn “đề xướng những tư tưởng của chủ nghĩa xét lại” là phá hoại chế độ trên bốn diện: chính trị, kinh tế, văn hoá và ngoại giao: “Về chính sách ngoại giao và quốc tế (nhóm Nhân văn) đề nghị đứng trung lập và nhận viện trợ của hai phe; đòi xét lại vai trò lãnh đạo của Liên Xô trong phe ta và cho rằng giai cấp công nhân không lãnh đạo thì cách mạng thuộc địa vẫn có thể thắng lợi được” [12] .

Lời buộc tội nghiêm trọng như vậy, nhắm vào ai? Không lẽ chỉ quy chụp một nhóm lèo tèo dăm ba nhà văn nhà thơ lớ ngớ quy tụ chung quanh báo Nhân văn? Muốn “đề xướng” một chính sách nội trị và ngoại giao lớn lao như vậy, phải là một chính đảng lớn, hoặc có thẩm quyền phát ngôn, hoặc đang cầm quyền, muốn đề xuất chính sách mới.

Ngày nay, chúng ta tiếp xúc dễ dàng với Hoàng Cầm, Lê Đạt, và biết rằng các ông ấy, thời điểm 1956, có hiểu biết “chính sách ngoại giao và quốc tế” là cái mô tê ất giáp gì đâu!

Lê Đạt tâm sự: “Lúc đó phải nói thật là chúng tôi chưa suy nghĩ gì sâu xa lắm đâu. Lúc đó tôi còn quá trẻ, mới 26, 27 tuổi, tôi chỉ nghĩ rằng anh em bây giờ trong điều kiện hoà bình thì phải chống lại vấn đề kiểm duyệt, nó khắt khe quá, và hai là chống thứ văn nghệ độc tôn, thực hiện tự do sáng tác… Nếu nói đến một cái ảnh hưởng gì đó của Nga, thì không phải là ảnh hưởng của phong trào nào của Nga, mà là ảnh hưởng một nhà thơ Nga mà tôi rất yêu mến, đó là Mayakovski. Như thế không thể gọi là ảnh hưởng phong trào này kia được. Hoàng Cầm, nhất là Văn Cao cũng chả ảnh hưởng gì của Maya cả, lại có cả anh Nguyễn Sáng và Sỹ Ngọc là những người của hội hoạ. Cho nên anh em là vui với nhau để chứng tỏ rằng những người nghệ sĩ, những người sáng tác có quyền sáng tác một cách tự do“. [13] Không có bằng cớ gì chứng tỏ các ông ấy muốn thành lập những câu lạc bộ Pê-tô-phi như ở Hungary 1956.

Khi xảy ra vụ án Nhân văn-Giai phẩm, nghe đâu Hồ Chí Minh có nói: không nên dùng dao mổ trâu để mổ gà. Sử gia Georges Boudarel, một chuyên gia đáng tin cậy về Nhân văn-Giai phẩm, đã sống tại Hà Nội thời gian này, mách Brocheux: trên báo Nhân dân ngày 16-9-1958, dưới bút danh Trần Lực, Hồ Chí Minh có lên án nhà văn nữ Trung Quốc Đinh Linh theo đà vụ án Trăm hoa đua nở chống hữu khuynh của Bắc Kinh giữa năm 1957.

Sử gia Brocheux đâm ra băn khoăn: “Hồ Chí Minh trích dẫn một tiểu thuyết gia nữ Trung Quốc mà không nhắc tên một tác giả Việt Nam nào, thậm chí cả tên Nhân văn, đưa chúng tôi đến thắc mắc: liệu ông có thật sự tán thành đợt đàn áp trí thức phản kháng?” [14] .

Quan điểm chúng tôi: hai tờ báo Giai phẩm và Nhân văn, những truyện, thơ, chính luận, chính kiến xuất hiện trên đó, trong năm 1956 chỉ là cái cớ, cơ hội cho những phe phái cầm quyền tranh chấp và răn đe nhau. Báo cáo của Trường Chinh, 13-3-1958, đưa ra những lời lên án nặng nề và trầm trọng không thể chỉ nhắm vào đám nhà thơ cỡ Trần Dần, Phùng Quán. Còn Thuỵ An thì nghĩa lý gì? Trường Chinh và phe cánh ông, mà Tố Hữu là cái loa ồn ào nhất, nhắm vào cái gì khác, và ai đó khác. Cái gì khác thì ta có thể suy đoán ra. Còn ai khác là ai với ai? Quyền lực cao cấp nhất là cấp bực nào trong guồng máy?

Mười năm sau, sự kiện tiếp theo là vụ án “Xét lại chống Đảng” 1967, sẽ hé thêm một ít tia sáng, nhưng cũng không nhiều. Nói như vậy là phần nào đó giải mã cho vụ án Nhân văn-Giai phẩm, giải oan cho những anh em làm văn nghệ có bài đăng trên hai tờ báo đó: họ là những con dê tế thần trên bàn thờ quyền lực. Bi thảm hơn, có khi, có người chỉ là con giun, cái kiến dưới gót sắt của một vài quan chức cơ hội – những thợ câu luôn luôn có mặt ở những khúc quành nước đục.

*

Vụ án Nhân văn-Giai phẩm là phông cảnh cho một cuộc tranh chấp quyền lực trong nội bộ Đảng Lao động Việt Nam vào khoảng 1957, giai đoạn quá độ từ nền hành chánh tạm thời hoà hoãn, đến một chế độ chuyên chính toàn trị: đây là một tiền đề có cơ sở lịch sử và duy lý.

Nhưng hệ luận của nó, mà chúng tôi muốn đề xuất, là quá trình chuyên chế hoá này gắn liền với quyết định võ trang thống nhất đất nước, đánh vào miền Nam, thì khó chứng minh hơn.

Trên giấy trắng mực đen, chế độ chuyên chính miền Bắc được xác định trên cơ sở Đại hội Đảng lần thứ 3, tháng 9-1960. Đại hội được dự trù vào năm 1958, so với dự kiến cuối năm 1956. Vụ việc Nhân văn-Giai phẩm rơi đúng boong vào thời điểm này: đối với Lê Đạt, Hoàng Cầm, và các bạn, là một tình cờ (contingence) nhưng với người cầm quyền là một quy luật (nécessité). Người biết và sử dụng được quy luật – tạm gọi là biện chứng – thì thăng quyền tiến chức, như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; người biết, nhưng chỉ né tránh thì tồn tại như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng; hay xa lánh như Nguyên Hồng. Người không biết, đành phải sa hầm sẩy hố, như Phùng Cung, Nguyễn Hữu Đang.

Bài này chỉ khoanh vùng nghị luận: đảng quyền, hay một bộ phận quyền lực Hà Nội đã quyết định đánh vào văn nghệ, cùng một lúc, hay trước khi đánh xuống miền Nam. Một mặt trận nhỏ để chuẩn bị tư tưởng cho trận tuyến lớn, dài hơi, phát xuất từ một chế độ thuần nhất, toàn trị và đảng trị.

Những chuyến xe tăng sẵn sàng chuyển bánh vào Nam, bắt đầu trên những trang giấy Giai phẩm và Nhân văn.

Bên trong thời điểm trùng hợp, thì hai mặt trận, một nhỏ một lớn, có quan hệ hữu cơ: không thể đánh vào miền Nam mà vẫn tôn trọng những báo Giai phẩm và Nhân văn phía sau lưng – với những đòi hỏi tự do, dân chủ, và… quyền biểu tình! Đây không những là việc thực tế hiển nhiên, mà còn là việc chọn lựa cơ chế chính tri, hệ luận của Hiệp định Genève. Có Tổng tuyển cử 1956, thì dù ít dù nhiều, phải thực thi dân chủ, và cũng là cơ hội để uyển chuyển cơ chế chính trị. Không có Tổng tuyển cử thì đành chọn con đường khác.

Theo văn kiện chính thức của Đảng, lệnh võ trang giải phóng miền Nam được ban hành từ Hội nghị Trung ương lần thứ 15, vào tháng 1-1959. Nhưng ý định và quyết tâm phải có trước đó.

Có thể là có từ lâu, nhưng thành hình cụ thể có lẽ vào 1957, khi Lê Duẩn từ Nam Bộ ra Hà Nội, dần dà nắm quyền lãnh đạo. Có lẽ vì dự án Tổng tuyển cử không thành, nên bang giao Việt-Pháp trở nên gay gắt: trường Viễn đông Bác cổ, tên tiếng Pháp là trường Pháp quốc Viễn đông (Ecole Française d’Extrême Orient) bị đóng cửa; giám đốc, chuyên gia về văn hoá, văn học Việt Nam là Maurice Durand bị trục xuất vì cái tội mà Tố Hữu gọi là “gián điệp đội lốt học giả nước ngoài”.

Tô Hoài được học tập và được “phổ biến”: “vấn đề phức tạp cả trong nhiều tầng lớp xã hội, không phải mấy truyện ngắn, mấy bài thơ là tất cả. Trong những anh em ấy không phải ai cũng biết tác động nhuốm màu chính trị lan truyền trong hoạt động Đảng Xã hội Pháp cũ. SFIO… Lại ông Đuy-răng ‘con’, tay chơi đồ cổ có hạng, nói tiếng Việt như ta… Những người nước ngoài vi phạm an ninh đất nước đã bị trục xuất” [15] .

(Sao lại xen chuyện SFIO [16] , Đảng Xã hội Pháp, vào đây? Có quan hệ gì đến hai chính đảng Dân chủ và Xã hội lúc đó?)

Gọi là “Đuy-răng con” để phân biệt với Gustave Durand “bố”, giáo sư Hán học tại Hà Nội [17] . Cũng trong giữa năm 1957 này, Jean Sainteny, Tổng Đại diện Cộng hoà Pháp, thân thiết với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, được “mời khéo” không trở lại Hà Nội, theo một nguồn tin riêng của Gerard Tongas;[18] sau đó là các nam nữ tu sĩ nước ngoài phải ra đi.

Trong nhật ký ngày 3-14 tháng 3-1958, nhật ký riêng, không phải bản kiểm thảo, Trần Dần viết: “bọn gián điệp vẫn liên lạc với Sainteny, là Thuỵ An” [19] . Cũng như Tô Hoài, Trần Dần chỉ “nghe phổ biến” và nói lại vậy thôi. Cho đến nay chưa ai đưa ra tư liệu gì chứng tỏ Durand và Thuỵ An là gián điệp – mà chuyện ấy cũng khó tin.

*

Phong trào Giai phẩm và Nhân văn khởi thuỷ từ tháng 3-1955, khi hai nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt đầu têu phê phán tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, và được nhiều người tán thành. Tập thơ ê a hoài cựu, dòng thơ lục bát không có gì mới, nội dung vân vê kỷ niệm không lấy gì làm sâu sắc. Nhưng rồi tập thơ lại được giải nhất đầu năm 1956.

Khi đánh vào Tố Hữu – Việt Bắc , nhóm phản kháng không dè là đụng phải một đối tượng khác, đụng phải Tố Hữu – “Ta đi tới”. Ông Tố Hữu trước hồi cố: mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng; ông Tố Hữu sau nhìn về tương lai, phía Nam – ta đi tới, trên đường ta bước tiếp, trong một bài thơ có lẽ là tác phẩm được học tập, truyền tụng sâu rộng nhất thời đó.

Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường Cách mạng dài theo kháng chiến

(…)

Ai đi Nam Bộ
Tiền Giang, Hậu Giang
Ai vô thành phố
Hồ Chí Minh
Rực rỡ tên vàng

(…)

Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng
Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt
Ta đi tới không thể gì chia cắt
Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau…

Có cái gì báo hiệu chiến dịch mùa xuân 1975, đã bắt đầu ào ạt từ mùa xuân 1972?

Ta đi tới , láy đi lặp lại, là nhịp bước, điệp khúc quân hành, một leitmotiv?

Phê phán Tố Hữu, chủ yếu về nghệ thuật, Trần Dần cao hứng đã có những lời rất nặng “cái nhìn Tố Hữu thật nhỏ bé quá. Nhìn vấn đề gì, vấn đề ấy thu hẹp lại. Yêu ai, người ấy nhỏ đi” [20] . Bài viết tháng 5-1955, vô hình trung đã đụng chạm đến một chính sách còn đang ở thế tiềm năng, qua cá nhân Tố Hữu?

Bài “Ta đi tới” được sáng tác ngay sau Hiệp định Genève, vào tháng 8-1954. Ngay lúc đó, hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ do Lê Duẩn, bí thư Xứ uỷ, triệu tập tháng 10-1954, đã kết luận: “Có hai khả năng phát triển: có thể Mỹ Diệm buộc phải thi hành Hiệp định Genève và cũng có thể Mỹ Diệm không thi hành. Cách mạng miền Nam cần phải có kế hoạch đối phó với cả hai tình huống trên”. [21]

Sau 1956, bước sang 1957, chính quyền miền Bắc đã cạn kiệt mọi kế hoạch thương thảo, chỉ còn một chọn lựa là vũ lực. Nhưng chần chờ và chuẩn bị, phải đợi đến giữa 1959 mới mở đường Trường Sơn 559. Hạ hồi, thì lịch sử sẽ hùng hồn phân giải – bằng xe tăng và đại pháo.

Cần nói: Tố Hữu không thể là nhân vật chủ chốt trong kế hoạch võ trang giải phóng miền Nam. Bài “Ta đi tới” không phải là cương lĩnh; nó có thể biểu hiện một ý nguyện bị chèn ép, một ẩn ức theo nghĩa Freud; hoặc là một khát vọng dự phóng; hay một thị lực tiên tri. Trong việc đàn áp Nhân văn-Giai phẩm ông đã đọc ba tham luận dữ dội, đại cà sa. Dĩ nhiên đây là việc làm của Tuyên huấn. Nhưng lời lẽ hằn học, nhỏ nhen, chì chiết và chi tiết làm ta băn khoăn: phải chăng bản thân ông bị xúc phạm? Vì những phê phán tập thơ Việt Bắc? Vì báo cáo Khrushchev, việc hạ bệ Stalin? Cơn hoảng hốt sợ mất quyền chức? Ân oán giang hồ?

Hay là bên ngoài nhiệm vụ tuyên huấn, bên ngoài những lý do nói trên, ông phát ngôn thay cho những “phần tử” cứng rắn trong guồng máy? Và những “phần tử” này sẽ dần dần nắm trọn quyền bính khi quyết định tiến chiếm miền Nam? Vụ án Nhân văn–Giai phẩm thì ta đã biết, nhưng đằng sau, hay bên cạnh câu chuyện văn chương, còn có gì khác? Có cuộc tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp quyền hành trong nội bộ Đảng Lao động hay không, và vụ án chỉ là một triệu chứng biểu hiện?

Trả lời kiểu nào đi nữa, thì cũng cần ghi nhận: sự kiện Nhân văn–Giai phẩm đã xảy ra ỏ giai đoạn cực kỳ tế nhị trong nội bộ Đảng Lao động Việt Nam, trước nhiệm vụ bức bách là thống nhất đất nước, gặp phải cơn dao động và hoang mang, mà báo cáo Khrushchev 1956 đã bất ngờ gây ra cho toàn thế giới cộng sản.

Phong trào Giai phẩm–Nhân văn, nếu chỉ xem như là câu chuyện văn học, thì có nhiều tình tiết ta không hiểu rõ, về mặt nội dung lẫn nội vụ, và diễn biến trồi sụt trong ba năm 1956-1957-1958, án lệnh đầu năm 1960. Rồi hậu trình kéo dài hơn nửa thế kỷ, nay vẫn chưa chấm dứt, thăng trầm theo thái độ hư hư thực thực của chính quyền, ở nhiều giai đoạn và cấp bực khác nhau. Vậy Nhân văn– Giai phẩm là cái gì? Nếu là “vụ án” thì nó không phải là văn học, nểu là văn học thì không có gì đáng trở thành “vụ án”.

Giả thuyết chúng tôi đề xuất: Nhân văn–Giai phẩm là mặt nổi của một tảng băng mà phần chìm khuất quan trọng hơn nhiều: là sự tranh chấp quyền lực nội bộ của Đảng Lao động với những răn đe, chuẩn bị, che chắn, áp đặt chiến thuật và chiến lược, trong một thời điểm cực kỳ khó khăn và tế nhị.

Những khó khăn nội trị do Hiệp định Genève và dự án Tổng tuyển cử 1956 không thành, chồng chéo lên trên khó khăn đối ngoại do báo cáo 2-1956 của Khrushchev và mối bất hoà trầm trọng trong khối Nga-Hoa. Chưa kể đến các cuộc nổi dậy tại Ba Lan và Hungary, hậu quả Cải cách ruộng đất, và nhiều yếu tố khác mà chúng ta không biết hết.

Nhưng quan trọng hàng đầu, theo chúng tôi, là dự án võ trang giải phóng miền Nam đang thành hình.
Vì là giả thuyết, bài này không có kết luận.

_______

Nguồn: Bài đã đăng trên Talawas ngày 5.4.2007 với tiêu đề: “1956, Việt Nam, Giai phẩm, Nhân văn“. Tác giả gửi Diễn Đàn đăng lại nhân kỉ niệm 60 năm vụ “Nhân văn – Giai phẩm”.

© 2007 talawas (Bài đăng đồng thời trên Thế kỷ 21, số đặc biệt về Nguyễn Hữu Đang, tháng 4.2007).

[1]Brocheux (Pierre), Hồ Chí Minh, tr. 230, nxb Biographie Payot, 2003, Paris
[2]Brocheux, sđd, tr. 245, trích dẫn Yang Kuisong trong “Mao Zedong and the War in Indochina”, tham luận hội thảo tại Hồng Kông, 11-12 tháng 1/2000
[3]Devillers P, Lacouture J: Le Vietnam de la Guerre française à la Guerre américaine, tr.377, nxb Le Seuil, 1969, Paris
[4]Devillers P, Lacouture J , sđd, tr. 231
[5]Gérard Tongas, J’ai vécu dans l’Enfer Communiste au Nord Vietnam et j’ai choisi la Liberté, tr.193, nxb Les Nouvelles Editions Debresse, 460 trang, 1960, Paris.
[6]Gérard Tongas, sđd, tr. 431, 423
[7]Gérard Tongas, sđd tr. 230
[8]Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập II, tr. 97, nxb Khoa học Xã hội, 1200 trang, 2005, Hà Nội.
[9]Tố Hữu, Nhớ lại một thời, tr. 321-322 ; nxb Chính trị Quốc gia, 2000, Hà Nội, trích theo Đặng Phong, tr. 97.
[10]Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang trả lời phỏng vấn, Hợp Lưu, tạp chí, số 81, tháng 2/3-2005, tr.34 và 77, California.
[11]Trường Chinh, báo cáo trước Mặt trận Tổ quốc ngày 13-3-1958
[12]Trường Chinh, như trên; trích theo Bọn Nhân văn-Giai phẩm trước toà án dư luận, tr.368, nxb Sự thật, Hà Nội, 1959.
[13]Trả lời Thuỵ Khuê, Hợp Lưu, số 81 đã dẫn, tr. 34-35
[14]Brocheux, sđd, tr. 234
[15]Tô Hoài, Cát bụi chân ai, tr. 117, nxb Hội Nhà văn, 1992, Hà Nội
[16]SFIO = Section Française de l’Internationale Ouvrière (1905-1969), Phân bộ Pháp của Quốc tế Lao động.
[17]Maurice Durand (1914-1966), sinh tại Hà Nội, mẹ Việt, là một học giả uyên thâm, đã viết: Chùa Một Cột (1949), Chinh phụ ngâm (1953), Kiến thức Việt Nam (Connaissances du Vietnam, 1954), Lên đồng (1959), Cảm từ (Impressifs) trong tiếng Việt (1961), Phan Trần (1962), Tranh tượng dân gian Việt Nam (1969), v v. Gần đây, Hà Nội có xuất bản công trình Thế giới truyện Nôm (L’Univers des truyện Nôm) của ông, nxb Văn hoá, 1998. Đinh Gia Khánh đã viết tựa đại cà sa, hết lời ca ngợi. Ông ấy thôi làm gián điệp?
[18]Gerard Tongas, sđd, tr. 206
[19]Trần Dần, Ghi 1954-1960, tr 240, nxb tdmemoire, 450 trang, 2001, Paris.
[20]Trần Dần, Ghi, sđ d, tr.144
[21]Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II, tr.80, nxb Chính trị Quốc gia, 1955, Hà Nội

Ở trọ trên quê hương

Song Chi.
3/31/2016

Những ai đã từng sống và làm việc ở những quốc gia văn minh phát triển, có một thể chế chính trị tự do dân chủ và tiến bộ, có thể nhận thấy một điểm chung ở các quốc gia ấy là thái độ sống và làm việc của hầu hết tất cả mọi người, từ nhân dân tới chính quyền, đều tận tâm, tận hiến, vì đất nước, xã hội, vì tương lai của mình, của con cháu mình và những người khác.

Sở dĩ từ người dân cho tới chính quyền tại các quốc gia ấy có thái độ như vậy là vì những lý do rất rõ ràng như sau: người dân biết họ là chủ nhân của đất nước, họ có quyền bầu chọn đảng cầm quyền, bầu chọn chính phủ-tức là bầu chọn những người xứng đáng, đại diện họ làm việc cho đất nước cho nhân dân, và nếu những con người đó và cả cái đảng cầm quyền đó làm việc không tốt thì nhân dân có quyền “tống cổ” đi thông qua những lá phiếu.

Người dân đi làm cực khổ, cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội, nhưng họ cũng biết rằng xã hội và nhà nước sẽ lo lắng, giúp đỡ khi họ cần-lúc còn nhỏ chưa làm ra tiền thì được hưởng giáo dục miễn phí, nếu học cao hơn bậc trung học thì mượn nợ nhà nước sau này ra đi làm trả lại dần dần, trong đời có bất cứ việc gì cần như mua xe, mua nhà, lập gia đình, kinh doanh…đều có thể vay nợ ngân hàng nhà nước sau này trả, với điều kiện là có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định. Lúc đau ốm, tai nạn, khi về già, người không có đủ sức khỏe hay bị khiếm khuyết về thể chất, tâm thần không thể làm việc nuôi thân thì nhà nước nuôi cả đời…

Người dân làm việc, đóng thuế và biết rõ đồng tiền thuế của mình sẽ đi về đâu, tiêu vào những việc gì, có chính đáng hay không. Bên cạnh đó, nếu có chuyện gì xảy ra, luật pháp công bằng sẽ bảo vệ họ, sẽ giành lại công lý cho họ. Chính vì thế mà người ta an tâm làm việc, cống hiến, với khát vọng muốn làm cho xã hội, đất nước ngày một tốt đẹp hơn, vì tương lai chung của các thế hệ mai sau trong đó có con cháu mình.

Còn quan chức, chính khách và cả chính quyền đều hiểu rất rõ rằng người dân bầu họ lên và cũng có thề “phế truất” họ nên họ phải làm việc xứng đáng. Họ được bầu lên là để làm việc, để cống hiến, chứ không phải để đè đẩu cưỡi cổ, làm cha làm mẹ nhân dân.

Ngược lại, trong một xã hội độc tài không có tự do dân chủ, nhân quyền bị chà đạp, chẳng hạn như ở VN, tâm lý từ người dân cho tới nhà cầm quyền khác hẳn. Có thể gọi đó là “tâm lý ở trọ”.

Quan chức, chính khách của nhà nước cộng sản VN cũng tận tụy nhưng là để phục vụ cho cái đảng cộng sản, cho quyển lợi và sự tồn tại của đảng, của phe nhóm và của chính mình, chứ không phải phục vụ cho đất nước, nhân dân.

Đất nước tụt hậu thê thảm so với các nước láng giềng và trên thế giới, tham nhũng tràn lan, nợ công ngập đầu, từ kinh tế cho tới chính trị, quốc phòng bị phụ thuộc nặng nề vào Trung Cộng, cái họa mất nước luôn treo lơ lửng, xã hội bát nháo, đời sống người dân đa phần vẫn quá khổ lại còn bị tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ…Họ cũng mặc kệ, đắp tai ngoảnh măt làm ngơ, chỉ lo tranh giành ghế, giữ ghế, lo vơ vét làm giàu và khi có tiền thì chuyển thành những cơ sở kinh doanh, bất động sản, các trương mục ngân hàng an toàn ở nước ngoài, đưa con cái đi học ở nước ngoài…để nếu VN có chuyện gì thì họ đã có sẵn cơ ngơi ở một quốc gia đáng sống khác, chả phải lo lắng gì.

Đất nước này chỉ như một cái mỏ cho họ vơ vét, khai thác, họ không muốn và cũng không dám có bất cứ sự thay đổi nào để làm cho đất nước trở nên khá hơn. Tâm lý “ở trọ” là ở chỗ đó.

Còn người dân? Đa phần cũng đang ở trọ trên chính quê hương mình. Miệt mài kiếm sống, không quan tâm đến tình hình chính trị xã hội, không thấy và cũng không muốn thấy, không lên tiếng trước bất cứ chuyện sai trái, bất công, phi lý nào của xã hội, của chế độ… Chúng ta đã từng nghe quen những câu nói sau ở người này người khác: “Chậc, lo làm ăn kiếm sống, lo cho bản thân cho gia đình thôi, ba cái chuyện chính trị chính em đã có đảng và nhà nước lo, quan tâm làm gì cho thêm rách việc”. “Nói nhiều thì cũng có thay đổi được gì đâu, còn mang vạ vào thân”…

Đã có rất nhiều bài viết về sự thờ ơ, vô cảm của người Việt. Thờ ơ, vô cảm từ những chuyện nhỏ như thấy người bị nạn giữa đường ngại giúp vì sợ phiền hà, im lặng trước một cảnh bất công vì sợ liên lụy, cho tới những vấn đề lớn liên quan đến cả xã hội, đến vận mệnh tương lai của đất nước, dân tộc.

Tại sao tại có tâm lý ở trọ trên chính đất nước mình ấy?

Đối với quan chức, chính khách của đảng và nhà nước cộng sản, trước hết do họ được tuyên truyền giáo dục theo kiểu nhồi sọ từ bao lâu nay rằng đảng viên, quan chức phải phục vụ đảng, quyền lợi của đảng là trên hết. Đảng đứng trên cả đất nước, cả dân tộc, cả đất trời (kiểu suy nghĩ ấy thể hiện ngay trong những biểu ngữ như “Mừng đảng, mừng xuân, mừng đất nước”), đảng đứng trên cả Hiến pháp (chính ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng” (“Tổng bí thư: ‘Đề phòng thế lực muốn xoá bỏ điều 4 Hiến pháp’, VNExpress).

Ngay từ ban đầu, cái muc tiêu đấu tranh giành chính quyền của đảng cộng sản đã rất là “tư lợi” (“bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”, trong lời dịch tiếng Việt của bài hát Quốc tế ca L'Internationale). Vào đảng là có quyền lợi, là tha hồ kiếm chác bổng lộc, một người làm quan cả họ được nhờ, cho nên phải gắn với đảng chứ không phải vì đất nước, dân tộc. Và họ tin rằng chế độ này sẽ tồn tại lâu dài, không có gì làm nó sụp đổ được.

Nhưng cũng có một thiểu số, trong thâm tâm không thật tin rằng cái đảng này, cái nhà nước này được đa số người dân yêu quý, ngược lại, luôn luôn lo sợ chế độ sẽ bị sụp bởi các “lực lượng thù địch”, bọn phản động, bọn “diễn biến hòa bình” ngày càng đông đảo…Và vì lo sợ nên họ càng vơ vét tích trữ tài sản để có chuyện gì thì họ, con cháu họ cũng vẫn an toàn sung sướng.

Thêm vào đó, đa số các quan chức Việt từ trên xuống dưới có được chức vụ không do dân bầu mà do quan hệ, chạy chọt, đấu đá tranh giành nên khi đã ngồi vào ghế thì phải lo chụp giựt, vơ vét cho nhanh kẻo có lúc bị kéo xuống, bị đá ngã ngựa v.v…

Về phía người dân, khi phải sống trong một chế độ mà nhân dân không có được bất cứ một quyền nào cả, kể cả quyền chỉ trích những cái sai của nhà cầm quyền một cách đúng đắn và ôn hỏa, không được nhà nước giúp đỡ hỗ trợ trong bất kỳ việc gì, không có chế độ an sinh xã hội, cũng không được pháp luật bảo vệ nếu không có tiền, có thế hoặc có quan hệ, không có gì lạ nếu người ta phải thủ thân, phải tự lo cho mình, lúc đau ốm tai nạn tuổi già, lo cho tương lai của con cái. Bao nhiêu nỗi lo.

Rồi hàng ngày chứng kiến bao cảnh bất công phi lý, chứng kiến nhà nước nói một đằng làm một nẻo, những “tôi tớ của nhân dân” thì giàu có nứt đố đổ vách, ăn trên ngồi trước hưởng đủ mọi quyền lợi còn dân đen thì khốn khổ đủ đường, kẻ tham lam cơ hội bất tài không tử tế thì leo cao luồn sâu sung sướng, người tử tế lương thiện có tài thì bị thiệt thòi, bị chà đạp…lòng tin vào nhà cầm quyền, vào luật pháp, vào tương lai của đất nước ngày càng mất đi. Những ai có tiền thì tìm cách đưa con cái đi học, đi sống ở nước ngoài, và khi cần hoặc có cơ hội cũng sẽ ra đi.

Thế là cả một xã hội, từ dân đến quan, cứ như đang ở trọ trên chính đất nước mình.

Đất nước thay đổi bắt đầu từ mỗi người dân. Và sự thay đổi ấy bắt đầu từ trong suy nghĩ, tư duy.

Từ ý thức chính người dân mới là chủ nhân thật sự của đất nước chứ không phải đảng và nhà nước cộng sản. Mọi đảng phái, chế độ chỉ là tạm thời. Dân tộc, quốc gia mới là mãi mãi. Bắt đầu từ những việc nho nhỏ như lên tiếng trước việc một trong những con đường đẹp nhất Sài Gòn sắp bị chặt trụi cây, một học sinh bị thầy giáo sàm sỡ, một người dân bị kết án oan, môi trường bị ô nhiễm, thức ăn bị nhiễm độc, đồng hành cùng những người dân oan bị mất đất hay xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc ngang ngược quân sự hóa biển Đông, tham gia tự ứng cử vào quốc hội…tất cả đều là chuyển biến từ tâm lý, thái độ của người ở trọ sang người chủ của đất nước.

Để đến một ngày những người chủ ấy sẽ đứng lên buộc đảng và nhà nước cộng sản phải rút lui trong một cuộc bầu cử công khai chính thức để một chính đảng khác xứng đáng hơn, có trách nhiệm hơn lên lãnh đạo, chấm dứt kiểu hành xử nắm quyền mà như đang ở trọ đối với đất nước, dân tộc.

Một trí thức thiếu tri thức đã tin theo cộng sản vừa nằm xuống

Thiên Ý
3/30/2016


Theo tin từ trong nước, Giáo sư Lý Chánh Trung, một trí thức Miền Nam vừa từ trần, thọ 88 tuổi (1928-2016). Cái chết của ông nếu có đưa đến sự tiếc thương của thân nhân và bạn bè cùng lập trường và khuynh hướng chính trị, và trong chừng mực nào đó có được nhà cầm quyền CSVN ca ngợi như là người có công với cách mạng, thì đối với người Việt quốc gia nhiều người không khỏi buồn lòng hay phẫn nộ và hối tiếc cho một trí thức hàng đầu ở Miền Nam một thời đã “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”.

Đối với chúng tôi, một người Việt quốc gia, khi đọc tin về cái chết của Gs Lý Chánh Trung, không xúc động mà chỉ nẩy ra ý định viết một bài về Ông, một nhà trí thức mà thiếu tri thức nên lúc sinh tiền đã tin, theo cộng sản. Còn có tin theo cộng sản cho đến hơi thở cuối cùng hay không thì còn là một nghi vấn.

I/- Về GS Lý Chánh Trung

Tôi biết nhưng không quen Gs Lý Chánh Trung. Tôi chỉ có dịp gặp riêng một lần duy nhất là vào khoảng năm 1989 khi ông đang là Dân biểu Quốc hội Khóa 8. Tôi đến gặp ông theo thư giới thiệu của LM Phan Khắc Từ mới được “đảng cử dân bầu” vào Quốc hội Khóa 8, khi tôi đến gặp để nhờ chuyển đạt đơn từ, tài liệu khiếu nại kêu oan đến các lãnh đạo cấp cao Trung ương đảng và nhà nước CSVN ở Hà Nội, trong tình trạng tôi đang bị lệnh truy nã gặp đâu bắt đó của Viện Kiểm sát Quân chủng Phòng không. Vì tôi đã bỏ trốn, không đến làm việc với chấp pháp đã buộc ký vào biên bản nhận tội trốn thuế, liên quan đến hợp đồng hợp tác sản xuất kinh tế trên địa bàn của một Trung đoàn Bộ đội Phòng không gần nhà tôi ở Quận 8 Sài Gòn. Theo đề nghị của đại biểu quốc hội Phan khắc Từ tôi cần đến gặp Gs Lý Chánh Trung để có hai tiếng nói can thiệp sẽ hiệu quả hơn. Tôi nhớ là lúc đó gặp Gs Trung ở Trụ Sở các đại biểu quốc hội các tỉnh thành phía Nam trên đường Lê Duẩn (Thống Nhất cũ), gần Tòa Đại sứ Mỹ, nay là Tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ…

Những điều tôi biết về Gs Lý Chánh Trung thì chắc nhiều người cũng đã biết qua sách vở, báo chí truyền thông quảng bá các hoạt động chính trị, xã hội của một trí thức khoa bảng nổi tiếng như ông.

Gs Lý Chánh Trung sinh năm1928 ở Vĩnh Bình, dường như có thời kỳ đi tu, nhờ học bổng của Giáo hội Công giáo, du học ở Bỉ, tốt nghiệp Tiến sĩ triết học, về nước được tuyển dụng dạy môn đạo đức học thuộc khoa triết ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Trước 30-4-1975, Lý Chánh Trung tham gia sinh hoạt chính trị, xã hội với nhóm Ngô Công Đức, một dân biểu đối lập thân cộng trọng Quốc hội VNCH và là chủ nhiệm báo Tin Sáng. Ông cũng sinh hoạt trong Phong trào Pax Romano của nhóm trí thức công giáo và nhóm tuần báo Sống Đạo qui tụ một số trí thức công giáo có khuynh hướng chính trị, xã hội, tôn giáo cấp tiến. Đây là nhóm công giáo phản chiến ở Bỉ và Pháp về. Nhóm này đã dùng tờSống Đạo để tuyên truyền phản chiến, kết án chế độ miền Nam và Giáo hội Công giáo Miền Nam nhiều điều một cách chủ quan, sai sự thật, trái thực tế. Thời gian sinh hoạt trong Phong trào Pax Romano, Gs Lý Chánh Trung đã có những phát biểu về quan điểm chính trị, xã hội đứng trên lập trường dân tộc (ngụy dân tộc kiểu cộng sản), bênh vực người nghèo, đòi công bình xã hội. Nhưng qua nhiều lần phát biểu của ông tại đây, cũng như lồng trong các bài giảng dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn, đã thể hiện khuynh hướng thân cộng, đã cho người nghe hiểu thâm ý của ông là lên án chế độ và xã hội Miền Nam là thối nát, bất công, những lãnh đạo chế độ ở Miền Nam là “bạo chúa”, tay sai “Đế quốc Mỹ”, cần dẹp bỏ, gián tiếp ca ngợi chế độ độc tài đảng trị xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc lúc bấy giờ là tốt đẹp hơn…

Sau năm 1975, Lý Chánh Trung từ thiên cộng đã tin theo cộng sản khi viết nhiều bài ca tụng cộng sản bằng một luận điệu xu nịnh mà một người thường, không cần là một trí thức khoa bảng như ông, có chút liêm sỉ không bao giờ dám viết. Chẳng hạn, sau ngày cộng sản chiếm miền Nam, ông là một trong số các nhân vật trí thức miền Nam được tuyển chọn đưa ra miền Bắc đầu tiên và sau chuyến đi khi trở về ông kể lại: “Chúng tôi đã ôm nhau thắm thiết khi gặp trí thức miền Bắc và cùng nhau trong nổi vui mừng, nhảy múa đồng ca bài Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng… Chúng tôi cũng được tặng các bộ sách quý như Mác Lê Nin toàn tập….”

Sau đó, ông được đảng và nhà cầm quyền Việt cộng “biên chế” làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM, Đại biểu Quốc hội 3 khóa VI, VII, VIII, có khóa được làm Phó Chủ tịch Quốc hội. Sự thể này đã làm lộ rõ bộ mặt thật của một trí thức công giáo Miền Nam. miệng luôn luôn nói về tình tự dân tộc nhưng thực tế nay đã theo cộng sản vô thần, vô tổ quốc… Nhưng cũng như những người khác trong nhóm Sống Đạo, Việt Cộng chỉ sử dụng ông cũng như những trí thức cùng thời tin theo CS, như một công cụ phục vụ lợi ích nhất thời cho chế độ mới trong giai đoạn chuyển tiếp, rồi sau đó “vắt chanh bỏ vỏ”. Vì thế đã có người gọi “Lý Chánh Trung là một người cộng sản không có thẻ đỏ”. Ông không vào hay không được kết nạp vào đảng CSVN? Nghi vấn này đưa đến một nghi vấn khác, là liệu ông có tin theo cộng sản cho đến hơi thở cuối cùng hay đã phản tỉnh từ lâu mà dấu mặt, vì sợ mất chút ít quyền lợi được chế độ dành cho, hay chỉ muốn an thân, yên phận nên đã theo gương nhiều đảng viên CS phản tỉnh khác “ngậm miệng ăn tiền” hay “nín thờ qua sông”?

Thực tế dường như đã có câu trả lời thay ông khi người ta thấy cuộc sống của ông không có dấu hiệu của một sự ưu đãi đặc biệt hay quyền lợi ưu tiên nào được chế độ dành cho. Ông đã phải sống quãng đời còn lại rất cơ cực, bị bệnh Alzheimer’s trong những năm cuối đời và chết vì bệnh viêm phổi. Di sản mà ông để lại chỉ là một căn nhà trong Làng Đại học Thủ Đức do chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa cấp cho ông, chế độ cộng sản chỉ có công tiếp quản, rồi hóa giá theo chế độ nhà đất đối với cộng sản, để ông được làm chủ và sống cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Vì vậy, có thể là ông đã phản tỉnh từ lâu, nhưng không dám công khai nói lên sự phản tỉnh của mình như Lê Hiếu Đằng và những trí thức Miền Nam cùng thời lỡ tin theo cộng sản đã “phản tỉnh công khai”, phần vì tuổi già sức yếu, phần vì muốn an thân, không muốn bị nhà cầm quyền quấy nhiễu.

II/- Một trí thức thiếu tri thức

Chúng tôi viết hay gọi Gs Lý Chánh Trung là một trí thức thiếu tri thức. Vì thiếu tri thức hay là thiếu sự hiểu biết và kinh nghiệm về CS, nên ông đã không nhận thức được thực chất của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc - Cộng tại Việt Nam (1954-1975) do cộng sản Bắc Việt phát động, tiến hành nhằm cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam, theo chiến lược toàn cầu của cộng sản quốc tế, đứng đầu là Liên Xô – Trung Quốc, được ngụy trang là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Vì không nhận thức đúng thực chất của cuộc nội chiến, nên Lý Chánh Trung mới “thiên cộng”, đã đứng trên lập trường ngụy dân tộc của cộng sản, cố gắng biến mình là “Thành phần thứ ba” như là thành phần đứng giữa công cụ của CS Bắc Việt là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam” và cái gọi là “Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Đồng thời, lợi dụng vị thế, chỗ đứng của một trí thức khoa bảng được trọng vọng và ưu đãi trong chế độ dân chủ pháp trị VNCH ở Miền Nam, nên đã có những lời nói, hoạt động có lợi cho CS, cò hại cho chế độ VNCH, môt chế độ thực sự là của dân tộc và vì dân tộc ở Miền Nam.

Sau ngày 30-4-1975, cũng vì thiếu tri thức, nên đi từ “thiên cộng”, nhà trí thức khoa bảng Lý Chánh Trung đã “theo cộng”; qua thực tiễn vẫn không sớm nhận ra bộ mặt thật của đảng CSVN chỉ là ngụy dân tộc để cướp chính quyền, không phải giành và giữ độc lập, chủ quyền dân tộc, mà giành thuộc địa kiểu mới cho các tân đế quốc Đỏ Liên Xô – Trung Quốc, cộng sản hóa đất nước, lệ thuộc cộng sản quốc tế. Đồng thời vì thiếu tri thức, Lý Chánh Trung đã không sớm nhận thức được chù nghĩa cộng sản là “không tưởng”. Thực chất của công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trên cả nước chỉ là phương tiện để nắm quyền độc tôn, bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho một giai cấp thống trị mới là các cán bộ đảng viên đảng CSVN. Tập đoàn và chế độ này còn độc đoán, tàn ác hơn nhiều so với chế độ các bạo chúa trong các chế độ phong kiến thời xa xưa hay các nhà độc tài trong các chế độ độc tài các kiểu sau này.

III/- Kết luận

Người ta thường nói “nghĩa tử là nghĩa tận” với ý nghĩa như là để tôn trọng người chết hãy bỏ qua mọi lỗi lầm, không nên nói gì đến họ nữa. Thế nhưng theo thiển ý cách xử sự này thường là dành cho những người bình thường, sống lương thiện. Còn những người có cuộc sống không bình thường hay nói theo quan niệm dân chủ người Mỹ là những người của quần chúng, thì khi sống cũng như khi chết, người ta có thể đưa cả đời tư cá nhân, tốt cũng như xấu, của những người này ra trước công luận như những kinh nghiệm cho người sống đã và đang dấn thân phục vụ xã hội, con người và đất nước.

Vì vậy khi chúng tôi “viết về một trí thức thiếu tri thức đã tin theo cộng sản vừa nằm xuống” là theo chiều hướng này, với mục đích nhắc nhở và là bài học kinh nghiệm cho những trí thức Việt Nam có cùng cảnh ngộ như Gs Lý Chánh Trung, cùng thời trước 30-4-1975, cũng như các thế hệ trí thức cũng như không phải là trí thức sau này, nếu đã lở tin theo CS, chưa “phản tỉnh” thì hãy kịp thời phản tỉnh và “phản tỉnh hoàn toàn” (trong cả nhận thức lẫn hành động), chứ không “phản tỉnh nửa vời”. Chính sự “phản tỉnh hoàn toàn” và kịp thời này (đừng dể quá muộn sau khi nhắm mắt) sẽ đóng góp ít nhiều vào việc thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam sớm kết thúc.

*Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Người Việt đang hả hê tiễn đồng loại ra nghĩa địa

VTC News
3/24/2016



(VTC News) – Chính người Việt chứ không phải ai khác, đang như những con kền kền ăn xác thối, hả hê tiễn đồng loại ra nghĩa địa bằng cách gieo rắc đại dịch ung thư.

Cách đây nhiều năm, cú sốc lớn giáng vào cuộc đời tôi khi bác sĩ thông báo bố tôi mắc bệnh ung thư gan. Không lâu sau đó, ông qua đời vì sự tàn phá cơ thể đến khủng khiếp của căn bệnh quái ác.

Chưa bao giờ tôi từng nghĩ tới việc, có một thứ gì khiến con người ta đau đớn đến vậy. Mãi những năm tháng sau này, thứ ghim chặt trong đầu óc tôi, vẫn là những cơn đau quằn quại đến chết đi sống lại của bố.

Những ngày này, tôi lại rùng mình khi thấy những con số đập vào mắt, hàng trăm nghìn người mắc bệnh ung thư mỗi năm, phần lớn trong số ấy, thần chết đều gọi tên họ.

Và khủng khiếp nhất, là căn nguyên của căn bệnh chết người kia, một phần không nhỏ đến từ môi trường bị nhiễm độc và thực phẩm bẩn đang đi vào con người chúng ta hàng ngày, hàng giờ.



Những người may mắn chưa bị thần chết gọi tên, lại sôi sục vì hình ảnh những con ruốc bị nhuộm đỏ.

Chẳng thế mà sáng nay, những người may mắn chưa bị thần chết gọi tên, lại sôi sục vì hình ảnh những con ruốc – một món ăn quen thuộc được ngư dân đánh bắt trên bãi biển Gành Đỏ, Phú Yên đang được nhuộm sang màu hồng đỏ, để bắt mắt hơn, nhìn tươi ngon hơn, và che giấu được cả những con đã chết rồi trong đó.

Thứ màu ấy, các chuyên gia nghi là Rhodamine B, một hợp chất hóa học cấm sử dụng trong thực phẩm vì rất độc, dùng trong ăn uống có thể gây ung thư.

Rồi cả thông tin của Bộ NN&PTNT về salbutamol, một trong những chất bị cấm sử dụng trong ngành chăn nuôi, đã được Bộ Y tế cấp phép nhập khẩu với số lượng lớn để sản xuất thuốc cho người.

Biết bao người lại giật mình nghĩ tới bữa cơm hàng ngày, khi trong số 9.140kg salbutamol được nhập khẩu về Việt Nam trong năm 2015, đã bán ra thị trường hơn 6.000kg, chỉ có 10kg dùng đúng quy định, số còn lại, được trộn lẫn vào thức ăn cho lợn.

Nghĩa là hơn 6 triệu con lợn đã chui vào dạ dày người dân, đi cùng đó là 6.000kg chất cấm.


Video: Người Việt đã ăn hơn 6 triệu con lợn nhiễm độc (Nguồn: VTC14)

Lần lượt chuỗi hình ảnh kinh hoàng chạy thẳng vào đầu óc, đó là những khi các chủ cơ sở kinh doanh mực tươi dùng chất tẩy trắng – loại hóa chất cực mạnh dùng để tẩy quần áo để con mực trở nên trắng tinh, tươi rói; Là việc hàng tấn chân gà, giò lợn đã chuyển sang trạng thái phân hủy được phù phép bằng hóa chất để trở nên bắt mắt, ngon nghẻ…

Nghĩa là, với những gì đang ăn, đang uống hàng ngày, chúng ta có thể bị ung thư ghé thăm bất cứ khi nào, cuộc ghé thăm được thông báo trước mà không cách gì ngăn cản nổi.

Hả hê tiễn đồng loại ra nghĩa địa

Hóa ra, từ trước đến nay, chính người Việt đang giết chết giống nòi của mình chứ không phải bất kì ai khác. Lòng tham đã khiến nhiều người giẫm đạp lên đạo đức, lên sự sống của chính ông bà, bố, mẹ, con cái, họ hàng, người thân để làm giàu bằng cách đê tiện và phi nhân tính nhất.

Những thứ giết người từ từ ấy, được ngang nhiên bày bán, được đon đả chào mời, được tươi cười giới thiệu, được hứa hẹn đảm bảo về độ vệ sinh, sạch sẽ mà cái kẻ leo lẻo mời mọc kia không gợn lên một chút áy náy, ngượng ngùng.

Tràn lan khắp mọi nơi, từ nhà hàng sang trọng tới vỉa hè, từ quán cơm bình dân đến nhà ăn tập thể trong khu công nghiệp, từ chợ cóc tạm bợ đến siêu thị tưởng chừng đã gắn mác tin tưởng, đâu đâu cũng là những thứ bẩn thỉu, được tẩm ướp đủ thứ hóa chất độc hại đã bị cấm sử dụng.

Đến ngay cả những cuộc kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng lấy lệ, chớp nhoáng, qua loa, đại khái. Để rồi, miếng ăn hàng ngày trở thành nỗi sợ hãi của biết bao người.



Chúng ta có thể bị ung thư ghé thăm bất cứ khi nào, cuộc ghé thăm được thông báo trước mà không cách gì ngăn cản nổi.

Tôi run rẩy hình dung hình ảnh con kền kền ăn xác thối, đậu trên cành cây cao, mừng rỡ khi thấy sinh vật đứng trước mắt mình, từ từ gục xuống.

Biết bao kẻ nhét đồng tiền bất chính sau túi quần, phủi tay trắng trợn, nở nụ cười tởm lợm nhìn đồng loại đi dần về phía nghĩa địa, y như những con kền kền đó, sống bằng cái chết của con người.

Nhiều người đặt câu hỏi, những cái chết ám ảnh, những con số khủng khiếp, những bãi nghĩa địa ngày càng trở nên chật chội, tiếp theo sẽ là gì?

Hôm qua, hàng nghìn người đã bật khóc khi tiễn biệt Trần Lập về nơi cuối cùng của kiếp người, kết thúc một cuộc đời ngắn ngủi.

Thủ lĩnh ban nhạc Bức Tường qua đời vì căn bệnh ung thư trực tràng, một phần căn nguyên, đến từ những thực phẩm bẩn đang tràn lan trên thị trường mà mỗi ngày anh đưa vào cơ thể. Mạnh mẽ, kiên cường đến mấy, cuối cùng Trần Lập cũng phải về nằm lại dưới đất sâu, vì sự tàn phá khủng khiếp của đủ thứ chất giết người đã tích tụ trong con người anh.

Người ta gọi cái chết của Trần Lập là lời kêu gọi sự thức tỉnh lương tri con người hướng về những điều tử tế.

Không phải, cái chết đau đớn của Trần Lập, màu đỏ tươi của con ruốc hay nỗi ám ảnh về 6 triệu con lợn kia, không thể nhân đạo là sự thức tỉnh lương tri được nữa, mà là đỉnh đỉnh điểm của sự phẫn nộ, là dấu mốc đầy căm phẫn những kẻ bất lương, là lời giục giã, buộc những người có trách nhiệm phải hành động, vì sự tồn tại của chính những người đang còn may mắn sống sót.

Ai trong số chúng ta đã một lần phải bước vào bệnh viện, thót tim bước qua phòng cấp cứu, cứ vài tiếng lại có những tiếng khóc xé ruột gan vì người thân của họ vĩnh viễn chia lìa cuộc sống trong sự đau đớn của ung thư? Ai trong số chúng ta, chính ruột thịt của mình quằn quại, vật vã vì ung thư hành hạ, rồi phải nằm dưới đất sâu lạnh lẽo kia?

"Nếu không phải bây giờ thì sẽ là bao giờ, nếu không phải chúng ta thì sẽ là ai...", sẽ ngăn chặn những kẻ bất lương gieo rắc cái chết cho đồng loại?


Video: Ngư dân Phú Yên nhuộm ruốc bằng hóa chất (Nguồn: VTV)

- See more at: http://m.vtc.vn/nguoi-viet-dang-ha-he-tien-dong-loai-ra-nghia-dia.457.601099.htm#sthash.EAmf4wzO.dpuf

3/29/2016

Kỷ niệm 10 năm bản Tuyên ngôn lịch sử

Nguyễn Minh Cần - Danlambao
3/2016



Thấm thoắt thế mà đã 10 năm rồi, kể từ ngày bản “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” được 118 chiến sĩ dân chủ trong nước công bố. Lần đầu tiên dưới chế độ khắc nghiệt của đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), các chiến sĩ dân chủ trong nước đã can đảm công khai vạch rõthực chất của thể chế chính trị ở nước ta là chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVNvà đã đề ra mục tiêu đấu tranh cho phong trào dân chủ nước ta là nhằm chuyển hóa thể chế nước ta sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh.

Tuyên ngôn 8406 đã xác định: “Trong cuộc Cách mạng tháng 8.1945, sự lựa chọn của toàn Dân tộc ta là Độc lập Dân tộc, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội...” “...Rõ ràng mục tiêu của cuộc cách mạng ấy đã bị đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đánh tráo. Và dĩ nhiên, Quyền Dân tộc tự quyết cũng hoàn toàn bị thủ tiêu... Vì một khi nền chuyên chính vô sản đã được thiết lập, thì theo Lênin, chức năng đầu tiên của nó chính là: bạo lực và khủng bố trấn áp!”. Vì ĐCSVN lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, nên ngay sau khi cướp được chính quyền năm 1945, và nhất là sau năm 1954 ở miền Bắc và sau tháng 4 năm 1975 ở toàn quốc, “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam. Chính cái bóng ma ấy chứ không phải là cái gì khác đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả hai mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam.” Tuyên ngôn đã khẳng định: “Dân tộc Việt Nam... bị cai trị bởi chế độ độc đảng toàn trị cộng sản. Điều này thể hiện cụ thể tại Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành, rằng: ”Đảng Cộng sản Việt Nam... theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Chính vì điều này mà các quyền tự do, dân chủ của Nhân dân đã hoàn toàn bị triệt tiêu...”. 

Đúng vậy! Ngày nay, khi chủ nghĩa Marx-Lenin không còn sức sống, đã bị thế giới văn minh vứt vào sọt rác, và chủ nghĩa xã hội bị nhân dân ở nhiều nước từ bỏ đã trên 25 năm rồi, kể cả trên cái nôi của nó là nước Nga, thế mà cho đến nay (2016) ĐCSVN vẫn “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin”, vẫn “kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa”. Vì thế, chẳng những các quyền tự do, dân chủ của nhân dân bị chà đạp thô bạo mà mọi mặt kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế và xã hội đều bị trì trệ, và nước ta bị tụt hậu rất xa so với các nước láng giềng. 

Tuyên ngôn 8406 đã đưa ra “mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng...”. Tiếp theo, Tuyên ngôn đưa ra những mục tiêu cụ thể là đòi hỏi thực hiện các quyền tự do thông tin, ngôn luận, quyền tự do hội họp, lập hội, lập đàng, bầu cử, ứng cử, quyền tự do hoạt động công đoàn độc lập và quyền đình công chính đáng, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo theo đúng các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Có thể nói, những điều rất đúng này bạn đọc ngày nay coi như là chuyện đương nhiên, nhưng 10 năm trước đây, ở trong nước mà dám tuyên bố công khai, thẳng thừng như vậy trong một tuyên ngôn có tính cương lĩnh là chuyện hiếm thấy.

Cuối cùng, Tuyên ngôn nhấn mạnh là “phương pháp của cuộc đấu tranh này làhòa bìnhbất bạo động. Và chính Dân tộc Việt Nam chủ động thực hiện cuộc đấu tranh này.”

Với những nhận định chính xác và những mục tiêu đấu tranh đúng đắn như vậy, nên ngay sau khi được công bố, Tuyên ngôn 8406 đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt chưa từng thấy của đồng bào trong nước và hải ngoại. Theo Danh sách Công bố lần 14 ngày 8.2.2007 vào dịp kỷ niệm 10 tháng Tuyên Ngôn 8406 thì đã có: 2.217 người & 420 gia đình người Việt ở khắp các miền đất nước, và 20 ngàn tín hữu Cơ Đốc Phục Lâm, 483 gia đình nông dân Nam Bộ, 3.000 tín hữu Tin Lành Tây Nguyên, 3.876 người Việt ở hầu hết các nước hải ngoại & 9 Đại diện Cộng đồng người Việt Tự do hải ngoại (gồm có 3.885 người) đã ký tên. Đó là chưa kể hơn mấy chục ngàn người ký tên ủng hộ trên các trang Web hoặc trong các cuộc biểu tình mà Khối 8406 không thể thống kê hết.

Điều đặc biệt đáng nói là đã có 175 nhà hoạt động chính trị, các nhân sĩ, trí thức… nước ngoài đã ghi tên ủng hộ Tuyên ngôn 8406; trong số đó 8 Chính khách bảo trợ Tuyên ngôn với tư cách Đại diện Tổ chức hoặc cá nhân:

1- Thierry Oppikofer, Chủ tịch Ủy ban Thụy Sĩ - Việt Nam COSUNAM (19 Apr 2006),

2. Congressman Radomir Thomas Tylecote, Conservative Party, United Kingdom (1 Aug 2006),

3. Drs. Willem Koetsier, Secretary-General Universal Peace Federation The Netherlands (10 Aug 2006),

4. Congressman Frank R. Wolf, 10th District, Virginia, USA (26 Sep 2006),

5. Trần Dụng Lâm, Bí thư I Toà Đại sứ Trung Quốc (phản tỉnh), Australia,

6. Cựu Tổng thống Mông Cổ Natsagiin Bagabandi (05 Jan 2007),

7. GS TS danh dự Wimmer, Viện trưởng viện đại học EichstÄtt, Germany,

8. LM GS TS Joop Bergsma, GS Thần Học Các Đại học Germany;

25 Chính khách đại diện các Tổ chức tại Hội Nghị Quốc Tế tại Berlin (14-18 May 2006) về dân chủ hóa Trung Quốc và các nước Á Châu đã tuyên bố ủng hộ Tuyên Ngôn 8406;

50 Nhân sĩ Hiến chương 77 Tiệp Khắc trong đó có Tổng thống Vaclav Havelngày 23 May 2006 đã tuyên bố ủng hộ Tuyên Ngôn 8406;

50 Dân biểu Hoa Kỳ (30 May 2006) trong đó có những vị như Loretta Sanchez, Tom Davis, Chris Smith, Zoe Lofgren, Major Owens, Linda Sanchez... đã tuyên bố ủng hộ Tuyên Ngôn 8406;

40 Dân biểu Thượng Nghị sĩ Australia đã đồng ký tên ủng hộ Tuyên Ngôn 8406 tại Trụ sở Quốc hội Australia ngày 6 Dec 2006.

Đúng là từ trước đến nay chưa từng thấy một văn kiện nào của phong trào dân chủ VN được hưởng ứng và hoan nghênh nhiệt liệt như vậy. Đây là niềm tự hào rất xứng đáng của các chiến sĩ dân chủ trong nước.

Tuy nhiên, sau 10 năm nhìn lại, chúng ta thấy rõ nhược điểm của các chiến sĩ dân chủ trong nước hồi đó là đã soạn thảo được bản Tuyên ngôn rất có giá trị, nhưng về mặt tổ chức tiếp theo thì lại bất cập. Thực ra, đây không phải là lỗi của các chiến sĩ dân chủ, mà chủ yếu do sự đàn áp rất quyết liệt của giới cầm quyền CSVN, họ rất sợ các lực lượng dân chủ có tổ chức, nên các chiến sĩ dân chủ đã không thể công khai đặt vấn đề tập hợp lực lượng chung quanh bản Tuyên ngôn có tính cương lĩnh đấu tranh đó trong một tổ chức dân chủ chặt chẽ, có hệ thống rõ ràng để lãnh đạo phong trào. Mà họ chỉ có thể lập ra một hình thức gọi là Khối 8406, một tổ chức gần như vô định hình với một Ban điều hành nhỏ nhoi khó có thể bao quát công việc lớn lao trong cả nước. 

Dù vậy, các chiến sĩ dân chủ của Khối 8406 và Ban điều hành của Khối vẫn thường xuyên bị kẻ cầm quyền CS cho công an theo dõi, ngăn cản, khủng bố, bao vây kinh tế, bắt bớ, cầm tù… nên hoạt động của của Khối bị hạn chế rất nhiều. Tuy thế, trong 10 năm qua, Khối 8406 cũng đã thực hiện những công việc đáng kể:

- Thường xuyên bám sát tình hình Đất nước để kịp thời đưa ra trước công luận những “Lời kêu gọi” đồng bào, những “Tuyên bố” quan điểm, lập trường của Khối về các vấn đề quan trọng, những “Kháng thư” phản đối hành động sai trái của nhà cầm quyền cộng sản. Từ khi trong nước đã xuất hiện nhiều tổ chức dân sự thì Khối đã cùng phối hợp với các tổ chức dân sự đó gần như trong một mặt trận chung đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền.

- Liên tục trong suốt 10 năm qua, Khối 8406 đã ra đều kỳ Bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận”, 32 trang trên mạng, đồng thời Ban biên tập cũng cho ra báo in (mỗi số thường in 2.000 bản) để phát miễn phí trong nước, đó là không kể những số báo in thêm của các nhóm ủng hộ Khối 8406 ở Úc châu và Hoa Kỳ. Cho đến ngày 1.3.2016 “Tự Do Ngôn Luận” đã ra được 238 số. Đó là một cố gắng rất lớn của nhiều thành viên Khối và Ban biên tập bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận” trong 10 năm qua.

- Ngoài tờ bán nguyệt san, từ năm 2007 đến nay, Khối 8406 còn có một chương trình phát thanh hàng tuần, một Diễn đàn Paltalk hàng tuần từ năm 2008 đến nay và một Tủ sách Tranh đấu gần 20 cuốn.

- Khối 8406 có một bộ phận ở hải ngoại đang hoạt động ở Bắc Mỹ châu (Hoa Kỳ, Canada), Úc châu, Âu châu. Kể từ năm 2006, Khối 8406 đã tạo nên được ba Khối thân hữu là Khối 1706 và 1906 tại Úc châu, Khối 101206 tại Anh Quốc.

- Từ Khối 8406 đã phát sinh ra Đảng Thăng Tiến VN, Hội Dân oan VN, Công đoàn Độc lập VN. Và hiện nay, nhiều thành viên Khối 8406 đã đứng ra thành lập hay tham gia các tổ chức xã hội dân sự, như Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo (với Thượng Tọa Thích Thiện Minh, anh Nguyễn Bắc Truyển), Hội Cựu Tù nhân Lương tâm (thạc sĩ Phạm Bá Hải, Linh mục Phan Văn Lợi), Hội Anh em Dân chủ (LS Nguyễn Văn Đài, MS Nguyễn Trung Tôn), Hội đồng Liên tôn VN (cụ Lê Quang Liêm, đã mất, ông Lê Văn Sóc, PGHH, MS Nguyễn Trung Tôn, Tin lành, LM Phan Văn Lợi, Công giáo), Mạng lưới Blogger VN (chị Phạm Thanh Nghiên), Lao động Việt (cô Đỗ Thị Minh Hạnh)…

- Vì hoạt động dân chủ và nhân quyền cho Đất nước và Dân tộc, trong 10 năm qua đã có 50 thành viên của Khối 8406 bị tù, tổng cộng 231 năm tù ở (không kể các án quản chế). Nặng nhất là LM Nguyễn Văn Lý: 8 năm sau khi vào Khối. Trước đó LM đã có 3 lần tù, tổng cộng 14 năm (tất cả là 22 năm, hiện còn ở tù). Mục sư Nguyễn Công Chính: 11 năm (hiện còn ở tù); sinh viên Nguyễn Hoàng Quốc Hùng: 9 năm (hiện còn ở tù), tín đồ Hòa Hảo Dương Thị Tròn: 9 năm (đã ra tù),Hồ Thị Bích Khương: 7 năm rưỡi (3 lần tù, mới ra tù)... Đó là chưa kể các chiến sĩ dân chù của Khối 8406 mới bị bắt lại, còn đang giam giữ, chưa ra tòa, như LS Nguyễn Văn ĐàiTrung tá QĐND Trần Anh Kim, ông Lê Thanh Tùng... 

- Sự cống hiến của các chiến sĩ dân chủ Khối 8406 đã được các tổ chức nhân quyền người Việt cũng như các tổ chức nhân quyền quốc tế đánh giá cao. Cho đến nay, các thành viên Khối 8406 đã nhận được 37 giải nhân quyền của người Việt, trong đó nhiều nhất là giải Nhân quyền Việt Nam của Mạng lưới Nhân quyền VN (24 giải) và 31 giải quốc tế, trong đó nhiều nhất là giải Hellman-Hammett của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền - Human Rights Watch (HRW) ở Hoa Kỳ (24 giải).

Các chiến sĩ dân chủ không bao giờ thỏa mãn với những thành tựu đã đạt được vì trước mắt chúng ta tình hình trong nước đang đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ rất lớn, đòi hỏi mọi người dân chủ phải có nhận thức đúng và cố gắng hết sức để đưa Đất nước đến “mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ là“làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để”, cụ thể là làm cho chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN phải bị thay thế bởi “chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng có cạnh tranh lành mạnh”, như đã ghi rõ Tuyên ngôn 8406.

ĐẤT NƯỚC ĐỨNG TRƯỚC MỘT TÌNH THẾ MỚI

Gần đây có những sự kiện quan trọng đã xảy ra sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình Đất nước ta:

1/ Ngày 4.2.2016, Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) tại Aukland, New Zealand cùng với 11 thành viên khác, là: Canada, Hoa kỳ, Mexico, Peru, Chile, Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Brunei, Australia và New Zealand. TPP là một hình thức hợp tác quốc tế quan trọng, rất mới và bao quát gần như hầu hết các mặt, chẳng những về kinh tế mà cả về nhân quyền, dân quyền, quyền công đoàn… nữa. Theo dự đoán, Hiệp định TPP đến đầu năm 2017 sẽ được Quốc hội các nước đối tác phê chuẩn. Trong 12 nước, theo các nhà nghiên cứu thì VN sẽ là quốc gia có lợi nhất khi gia nhập TPP, nhưng VN lại là nước tồi tệ nhất, vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất, hơn nữa các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, nhân quyền dân quyền… dưới chế độ độc tài toàn trị đều có những vấn đề lớn, phải cải đổi triệt để mới có thể chơi chung với 11 nước kia được. Khi đã ký kết và phê chuẩn Hiệp định rồi, tập đoàn thống trị CSVN sẽ bị ràng buộc bởi những quy định trong hiệp định đó về trách nhiệm thực thi các quyền con người, các quyền công dân, quyền công đoàn độc lập và tự do, v.v... cũng như trách nhiệm phải sửa đổi thể chế hay chính sách cho phù hợp với các điều khoản trong Hiệp định. Chẳng hạn, trong TPP có những điều khoản sẽ rất gay go đối với VN, như tôn trọng quyền lợi và điều kiện lao động của công nhân viên qua công đoàn độc lập, hay triệt để giải trừ nạn buôn người, hay tránh nạn cạnh tranh bất công nhờ sự ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp tư nhân có sân chơi bình đẳng, v.v... Đó là những điều mà hiện nay đang là chính sách lớn của ĐCSVN, chẳng hạn, công đoàn phải là của ĐCS, chính sách «xuất khẩu lao động», doanh nghiệp quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, v.v... Dĩ nhiên, giống như bao thập niên đã qua, tập đoàn thống trị CSVN sẽ tìm mọi cách lươn lẹo, dối trá, lừa bịp và vi phạm các điều mà họ đã cam kết. Nhưng, chúng ta có thể tin chắc là trong «cuộc chơi» lần này, các đối tác khác trong TPP vì quyền lợi của nước họ, dân họ, nhất định họ phải kiểm tra chặt chẽ, không dễ dàng để cho VN «chơi xấu» hay «xỏ mũi» họ. Vì thế tập đoàn thống trị CSVN sẽ rơi vào một tình thế rất khó xử, trong thâm tâm không muốn thực thi nhân quyền, dân quyền và quyền công đoàn... không muốn thay đổi chính sách, đường lối, nhưng rồi vẫn bị bắt buộc phải thực hiện «phần nào» những trách nhiệm mà họ đã cam kết, nhất là khi tình trạng nguy cấp của ngân sách quốc gia và kinh tế quốc dân lụn bại thúc bách, bắt buộc họ phải thực hiện để hưởng được món lợi về kinh tế. Cái “phần nào” ấy lớn hay nhỏ là do cuộc đấu tranh giữa các đối tác với VN và do cuộc đấu tranh của lực lượng dân chủ đối lập VN với tập đoàn cầm quyền VN quyết định. “Phần nào” đó chính là khe hở (hẹp hay rộng tùy tình thế) mà những người dân chủ phải biết khéo léo lợi dụng để vươn lên. Chính lúc này, những người dân chủ phải biết mạnh dạn sử dụng chiến thuật “xé rào” và chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”, nghĩa là can đảm vượt qua “hàng rào” pháp luật của kẻ cầm quyền mà cứ thực thi các quyền con người, các quyền công dân, quyền công đoàn độc lập và tự do, quyền tự do ngôn luận, hội họp, tổ chức, v.v... không cần đợi phải xin phép chính quyền, đồng thời phải biết dựa vào các điều khoản giả dối về các quyền con người, các quyền công dân trong Hiến pháp VN, cũng như dựa vào các Công ước quốc tế mà VN đã ký kết, dựa vào các điều khoản trong Hiệp định TPP để đấu tranh đòi thực thi các quyền con người, các quyền công dân, quyền công đoàn độc lập và tự do, v.v... Phải dựa vào các điều khoản trong Hiệp định TPP để kịp thời tố cáo những vi phạm của giới cầm quyền, kiện lên các cơ quan của TPP, như Ủy ban TPP, bộ ngoại giao các nước TPP, nhất là Hoa Kỳ nhằm ép buộc tập đoàn thống trị phải thực hiện những đòi hỏi chính đáng của người dân. Gậy ông đập lưng ông là thế!

Khối 8406 cũng như các tổ chức dân sự trước tiên, cần cân nhắc thời điểm “xé rào” để thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, kể cả việc thành lập công đoàn độc lập hay nghiệp đoàn tự do. Sau đó, Khối 8406 cùng các tổ chức dân sự nên suy tính, cùng nhau bàn bạc lập nên một tổ chức chung gì có khả năng phối hợp hay điều phối cuộc đấu tranh chung của xã hội dân sự cho tự do, dân chủ để trong tương lai có thể động viên được quảng đại quần chúng trong cuộc đấu tranh chung. Cần có tinh thần mạnh dạn, chủ động đứng ra tự tổ chức nhau lại khi thấy có điều kiện. Còn những tổ chức dân sự đã thành hình mà chưa hoạt động vì còn chờ quyết định của cơ quan nhà nước thì nay cứ mạnh dạn hoạt động không chờ đợi gì nữa, đó cũng là cách “xé rào” có hiệu quả nhất khi tình hình cho phép.

TPP là một cơ hội tốt đồng thời cũng là một thử thách lớn cho VN, cả cho nhân dân và các lực lượng dân chủ VN, cả cho giới cầm quyền VN. Nhân dân ta, nhất là lực lượng dân chủ, và giới cầm quyền VN có tận dụng được cơ hội tốt đó và có quyết tâm vượt qua thử thách lớn đó để đưa Đất nước và Dân tộc tiến lên giàu có hơn, tự do hơn, văn minh hơn hay không? Cái đó tùy ý chí của mỗi bên. Muốn có ý chí tích cực thì cả hai bên đều phải thay đổi tư duy. Có nghĩa là nhân dân phải bỏ thái độ vô cảm, sợ hãi và ỷ lại vào đảng và nhà nước, không quan tâm đến chính trị, không dám đấu tranh. Còn giới cầm quyền - nếu thực tâm vì dân! - thì phải bỏ thói dối trá, lừa mị, gian tham, độc đoán, nói xạo, nói mép… Thay đổi tư duy xét cho cùng là việc nâng cao chẳng những dân trí mà cả “quan trí”, một cuộc cách mạng văn hóa thật sự. 

Nhân đây, để thấy rõ cái thói quen nói xạo, nói mép, nói dối của các quan chức CSVN còn nặng lắm, chúng tôi xin ghi lại đây chuyện này: ngày 5.10.2015, người đại diện Việt Nam, ông bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng trong cuộc họp báo chung với đại diện của các nước khác về TPP, đã tuyên bố rằng: lâu nay Việt Nam từng là thành viên của ILO (Tổ chức Lao động Quốc tế) và những điều kiện về lao động đưa ra trong thỏa thuận TPP không phải chỉ riêng của Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào mà là của ILO. Ông Hoàng nói có ý khoe rằng: Việt Nam là thành viên của ILO và cam kết thực hiện các quyền và nghĩa vụ với các điều kiện của ILO. Ông nói thêm: đó là cam kết và sự sẵn sàng mà Việt Nam sẽ thực hiện liên quan đến các vấn đề lao động (ý nói trong Hiệp định TPP). Nói ngon lành như vậy, nhưng thực tế thì... - theo tin của Ha Tran thứ Tư, ngày 11.11.2015 - vào cuối tuần trước, báo chí nhà nước Việt Nam ồn ào thông tin “Công bố toàn văn Hiệp định TPP”. Rất nhiều nội dung của bản văn cực kỳ quan trọng về kinh tế này đã được Bộ Công Thương – cơ quan chủ trì đàm phán TPP – công bố. Tuy nhiên, không có bất cứ thông tin nào về công đoàn độc lập trên các phương tiện thông tin đại chúng của nhà nước (chữ in đậm của người viết). Những tin tức về nội hàm của công đoàn độc lập như một thành phần không thể thiếu trong TPP lại vẫn chỉ được đăng tải bởi các hãng báo đài quốc tế và mạng xã hội. Ha Tran kết luận: Cố tình không công bố thông tin về Công đoàn độc lập không chỉ là một thủ thuật xấu chơi của giới lãnh đạo Việt Nam, mà hành vi này còn vi phạm chính cam kết về việc phải công khai toàn bộ thông tin mà đoàn đàm phán TPP của Việt Nam đã hứa hẹn và ký kết.

Lời nói của ông bộ trưởng Vũ Huy Hoàng làm cho người nghe ngoại quốc tưởng rằng là thành viên của ILO, từ trước đến nay VN đã thực thi nghiêm chỉnh những cam kết của mình với ILO. Thế thì ta thử xem sơ qua kể từ năm 1993, khi VN tái gia nhập ILO thì trong 22 năm qua, VN đã thực thi Hiến chương của ILO như thế nào? Đã “tôn trọng, xúc tiến và công nhận các quyền tự do nghiệp đoàn” chưa? Đã bảo đảm “an toàn và an sinh xã hội trong công việc” chưa? Đã “tôn trọng nhân phẩm người lao động” chưa? Đã triệt để thực hiện chế độ ngày làm việc 8 giờ chưa hay vẫn còn có nơi bắt công nhân làm việc đến 10, thậm chí 12 giờ? Đã bảo đảm quyền biểu tình và đình công cho người lao động chưa? V.v. và v.v… Đáng buồn là trả lời câu hỏi đó chỉ có một lời đáp duy nhất là: Chưa, chưa hề! Chỉ nói riêng cái chính sách “xuất khẩu lao động” mà bao năm qua đã liên tục xúc phạm nặng nề nhân phẩm của chính công dân mình vì đã coi họ chỉ như một mặt hàng xuất khẩu, gây ra thảm nạn công nhân đi lao động nước ngoài đã và đang bị bóc lột bởi các công ty môi giới quốc nội và các công ty tuyển dụng ngoại quốc, bị đẩy vào kiếp nô lệ lao công hay nô lệ tình dục hết sức thê thảm ở xứ người... thì cũng đủ thấy chính quyền CSVN đã chà đạp lên tinh thần và mục đích cao cả của ILO bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm của người lao động như thế nào rồi! Chúng ta còn nhớ cuối tháng 10.2006, Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nông Việt Nam đã ra đời ở trong nước. Hiệp Hội công khai tuyên bố sứ mệnh của mình là đấu tranh chống ách áp bức bóc lột và bảo vệ quyền lợi công nhân, lao động... thì lập tức bị chính quyền VN cho công an đàn áp ngay, và những sáng lập viên Hiệp Hội đứng đầu là anh Nguyễn Tấn Hoành, cùng với Luật sư Trần Quốc Hiền, phát ngôn viên của Hiệp Hội, đã bị đưa ra xử án tại Sài Gòn và tống ngay vào tù. Lý do: trong nước chỉ duy nhất một tổ chức công đoàn của ĐCS được phép tồn tại, đó là Tổng Liên đoàn Lao động VN, một tổ chức công đoàn ăn tiền phần trăm của công nhân, lao động nhưng không bao giờ đứng về phía công nhân, lao động mà lại bảo vệ quyền lợi cho giới chủ. Còn người công nhân, lao động muốn biểu tình, đình công thì trước hết phải xin phép công đoàn của đảng, nếu được đồng ý thì mới được tiến hành, còn nếu người công nhân, lao động cứ biểu tình, đình công thì bị coi là hành động bất hợp pháp có thể bị truy tố trước pháp luật... Chỉ mới đây thôi, báo chí đưa tin ngày 26.2.2016 trong lúc hàng ngàn công nhân công ty Pouchen đang đình công, đã xảy ra vụ viên công an chìm (công nhân nói là cảnh sát hình sự) tên là Nguyễn Thanh Hải đã bất ngờ cầm dao chém tán loạn làm bốn công nhân bị thương! (Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.ru/2016/02/ca-cam-dao-chem-nguoi-cong-nhan-pouchen.html) Đấy, cam kết và sự sẵn sàng mà Việt Nam sẽ thực hiện liên quan đến các vấn đề lao động (trong Hiệp định TPP) là như thế đó, như thực tiễn 22 năm VN đã thực thi Hiến chương của ILO vừa nói ở trên. Chẳng có ai ngây thơ, cả tin là tập đoàn thống trị sẽ dễ dàng và trung thực thực hiện mọi điều khoản trong TPP, nhất là về nhân quyền, dân quyền và quyền của công nhân, lao động nếu các đối tác và các nhà hoạt động công đoàn và các chiến sĩ dân chủ không kiên quyết đấu tranh với họ.

2/ Cuối tháng 1.2016 vừa rồi, đại hội 12 của ĐCSVN đã kết thúc sau một trận đấu đá, xâu xé rất ác liệt và bỉ ổi giữa các phe nhóm đều cùng là tay sai của Tàu Cộng. Tập đoàn thống trị trong Bộ chính trị (BCT) đưa ra nghị quyết 244 cực kỳ phản dân chủ, trắng trợn vi phạm Điều lệ đảng, thế mà cả 1510 đại biểu đại hội im re không một lời phản đối. Chính cái nghị quyết 244 đã là đòn bẩy đẩy một tổng bí thư vừa giáo điều nặng căn, vừa xảo quyệt, lại vừa thân Tàu Cộng được tái cử, là Nguyễn Phú Trọng. Đại hội còn chỉ định làm chủ tịch nước một viên đại tướng bộ trưởng công an độc ác, tàn bạo khét tiếng trong việc đàn áp các dân tộc Tây Nguyên, dân oan, tín đồ các tôn giáo cũng như đồng bào yêu nước biểu tình chống Trung Cộng xâm lược là Trần Đại Quang, chỉ định một viên phó thủ tướng kiêm phó trưởng ban phòng chống tham nhũng nhưng lại là tên trùm tham nhũng khét tiếng Nguyễn Xuân Phúc lên làm thủ tướng. Những sự kiện đó báo hiệu một thời đại tối tăm của Đất nước. 

Trước ngày khai mạc đại hội 12, BCT đã phái chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng sang Bắc Kinh chầu Thiên triều và nhận chỉ lệnh của Hoàng đế đỏ họ Tập, rồi sau đó chính họ Tập đã thân chinh đến tận Hà Nội hồi tháng 11.2015 để phủ dụ và chỉ giáo cho đám thái thú, cầm đầu là Trọng Lú. Giàn lãnh đạo mới của ĐCSVN là bảo đảm chắc chắn rằng VN sẽ thực hiện triệt để mật ước của Hội nghị Thành Đô 1990. Điều đó làm cho họ Tập yên tâm về đám thái thú «xứ An Nam» và vững tin là đám thái thú này sẽ càng bám chặt vào Tàu Cộng. Và thực tế là từ sau mật nghị Thành Đô (1990), qua các đời TBT CSVN, từ Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh cho đến Nguyễn Phú Trọng, tập đoàn thống trị nước ta đã hèn nhát đầu hàng, thần phục Tàu Cộng, kẻ thì cấm quân ta dùng súng để quân Tàu giết 64 quân ta và chiếm Gạc Ma, kẻ thì nhượng hàng ngàn km2 đất liền và trên 11 ngàn km2 biển Vịnh Bắc Bộ, kẻ thì để 18 tỉnh biên giới phía Bắc cho Tàu Cộng thuê trên 300 ngàn hec-ta rừng đầu nguồn trong thời hạn từ 50 đến 70 năm với giá rất rẻ, kẻ thì mở toang cửa cho TQ vào Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của Tổ quốc ta để khai thác bô-xít, lập làng lập phố ở đấy, kẻ thì cho TQ trúng thầu xây dựng các ngành trọng yếu nơi xung yếu về an ninh, quốc phòng, như điện lực, xi măng ở Bình Thuận, Khu gang thép Formosa ở Vũng Áng. Khi TQ hạ đặt giàn khoan HD-891 hồi tháng 5.2014 ở trong vùng lãnh hải nước ta, Tổng Trọng đã câm miệng rất lâu, không thốt lên một lời, còn khi tàu TQ đâm chìm tàu cá của ngư dân ta, bắn giết ngư dân ta thì không dám nói thẳng là tàu TQ mà chỉ gọi là «tàu lạ»… Trong lúc đó, mọi cuộc biểu tình yêu nước của dân ta phản đối Tàu Cộng xâm lấn chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải của ta đều bị đàn áp tàn bạo, mọi cuộc tưởng niệm các chiến sĩ của ta đã hy sinh trong cuộc chiến Hoàng Sa, Trường Sa mà những người yêu nước tổ chức đều bị phá, thậm chí bia tưởng niệm các tử sĩ của ta đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng bị đục bỏ. Đấy, đám thái thú «xứ An Nam» hèn với giặc, ác với dân như vậy đó, trung thành với Thiên triều như vậy đó, nên nguy cơ mất nước với Tàu Cộng là một điều rất hiện thực nếu nhân dân ta cứ thờ ơ, vô cảm mãi với việc nước mà không đồng tâm nhất trí đứng lên chống nội xâm và ngoại xâm để bảo vệ Tổ Quốc.

3/ Nhưng - mọi người đều biết - tình thế hiện nay của Tàu Cộng cũng không sáng sủa gì. Kinh tế và tài chính đang bị chao đảo mạnh. Thị trường chứng khoán bị tuột dốc, mấy lần sụp đổ nặng nề từ giữa năm 2015 đến đầu năm 2016, làm cho TQ thiệt mất khoảng 3600 tỷ USD. Trong lúc đó, nền sản xuất của TQ bị giảm sút; trên giấy tờ nhà nước ghi là tăng trưởng 6,9%, nhưng các nhà kinh tế tính ra chỉ tăng 3-4%, vì thế nguy cơ bùng nổ xã hội rất lớn. Trong tình hình đó, từ năm 2015 đã diễn ra nhiều vụ tháo chạy người và chuyển ngoại tệ ra ngoại quốc một số tiền rất lớn: trong vòng một năm rưỡi đã có gần 1000 tỷ USD thoát ra nước ngoài. Xu hướng phổ biến là phần đông dân giàu có và các quan chức đều muốn ra nước ngoài sinh sống, đều muốn gửi con và người nhà ra ngoại quốc trước, rồi có dịp sẽ theo sau. Nhiều người đã mua nhà cửa, đất đai ở Hoa Kỳ, Australia, v.v... chuẩn bị sẵn sàng “bãi đáp”. Các chuyên gia nổi tiếng nghiên cứu về Trung Cộng đã báo trước Trung Cộng đang gặp phải những khó khăn nan giải cả về sinh thái, cả về kinh tế, tài chính, cả về chính trị, xã hội, đặc biệt là sự bất mãn của quần chúng cần lao lên cao sẽ có ngày bột phát thành những bùng nổ xã hội mãnh liệt, và trong thời gian không xa Trung Cộng sẽ sụp đổ. 

Mặc dù đang lún sâu dần vào cuộc khủng hoảng, nhưng Trung Cộng vẫn giữ thói hung hăng bành trướng trên Biển Đông. Sau khi bồi đắp mấy bãi đá thành đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa của VN, TQ liền ráo riết xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo đó, và gần đây đã trắng trợn triển khai tên lửa đạn đạo địa đối không, chiến đấu cơ và radar đến đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa gia tăng sự hiện diện quân sự của TQ ở Biển Đông, mưu toan kiểm soát không phận và hải phân ở vùng này, đồng thời uy hiếp an ninh của VN.

4/ Với “truyền thống” sống dựa, sống bám tiếp thụ từ thời Hồ Chí Minh, khi thấy chỗ dựa Tàu Cộng bắt đầu chao đảo, tập đoàn thống trị CSVN ngày nay đang cố tìm thêm chỗ dựa mới cả ở Nga, cả ở Hoa Kỳ, cả ở châu Âu. Họ dùng thủ đoạn “bắt cá hai tay”, không chỉ ký kết TPP với 11 nước khác, và cũng đã đàm phán xong EVFTA (Hiệp định Tự do Thương mại VN-EU) với Liên minh Châu Âu, hòng tự cứu bản thân và gia đình, cứu vãn đảng và chế độ toàn trị của họ. Do đó, trong thời gian tới tình hình nước ta sẽ có những chuyển biến, thậm chí những biến động, và ĐCSVN khó tránh khỏi sụp đổ. 

Họ phải hành động như thế vì chế độ hiện hành ở Việt Nam đang lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện rất nặng nề, cả về kinh tế, tài chính, cả về giáo dục, y tế, xã hội, cả về chính trị. Cụ thể trước mắt là tập đoàn thống trị đang đứng trước một núi nợ cao ngất, mà theo báo cáo của bộ Tài chính VN trước Quốc hội: nợ công của VN đến cuối năm 2014, ước tính là 2346 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 110 tỷ USD. (Nguồn: http://www.doisongphapluat.com/kinh-doanh/thi-truong/no-cong-cua-viet-nam-la-110-ty-usd-chinh-phu-noi-gi-a104347.html). Các nhà kinh tế tính ra tất cả mọi người dân VN, già trẻ lớn bé, đều phải gánh một món nợ công lớn tới 1200 USD, và mỗi người hàng năm phải trả cả vốn lẫn lãi hàng trăm USD! Tập đoàn thống trị CS hiện đang lúng túng, không biết lấy gì trả nợ, và nguy cơ vỡ nợ đã rất rõ rệt. Trước đây, vay nợ đáng lẽ phải đầu tư vào sự nghiệp hữu ích phát triển con người, như xây dựng trường học, bệnh viện, tăng chi phí về giáo dục, y tế, phát triển nông nghiệp… thì người ta lại đầu tư vào các công trình to lớn không mang lại lợi ích thiết thực, như nhà máy lọc dầu Dung Quất, các đập thủy điện không có nghiên cứu cẩn thận, các tòa nhà đồ sộ, cao ngất dành cho các cơ quan hành chính của tỉnh, thành phố, các viện bảo tàng Hồ Chí Minh và các tượng đài Hồ Chí Minh ngốn hàng ngàn tỷ đồng, đó là không kể những số tiền lớn đã chui vào túi các quan tham... trong khi nhân dân còn đói ăn, thiếu trường học cho trẻ con, trường ốc thì tồi tàn, các địa phương đều thiếu bệnh viện, tình trạng quá tải trong các bệnh viện thật là khủng khiếp... Tại đại hội 12 của đảng, chính bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã thổ lộ trong cuộc thảo luận tổ:“Ngân sách trung ương hiện chỉ còn 45.000 tỷ đồng. Với mức này không biết để làm cái gì, chưa nói để trả nợ với các thứ. Cho nên gần như không có tiền để làm gì cả”. Một số quan chức nhà nước cũng đã phải thừa nhận là “ngân sách quốc gia đã cạn kiệt.” 

Về mặt xã hội tình hình ngày càng nghiêm trọng do nạn tham nhũng tràn lan ở mọi cấp, mọi ngành, do nạn cưỡng chế thu hồi đất, nói thẳng là cướp đoạt đất nhà của dân, tạo ra thảm trạng “dân oan” kéo dài hàng mấy chục năm rồi không được giải quyết. Do đó, lòng uất hận, căm ghét của người dân đối với ĐCSVN ngày càng bị dồn nén, đến một mức nào đấy khó tránh khỏi những bùng nổ xã hội. Cái não trạng ù lì, vô cảm của người dân VN, kể cả trong giới gọi là trí thức, hiện còn nặng, nhưng đến một mức nào đó - nhất là lúc thời cơ đến - số đông trong đại chúng chắc chắn sẽ “tỉnh ngộ” do đó sẽ bùng lên một cao trào đấu tranh rất mạnh mẽ. Những người dân chủ VN cần thấy trước tình thế để kịp thời nắm lấy thời cơ đẩy mạnh phong trào lên nhằm đạt được mục tiêu đấu tranh của mình.

Chính vì lo sợ cái viễn cảnh đó, nên trong nhiệm kỳ tới, Nguyễn Phú Trọng đã đưa vào cơ cấu TƯ đảng một số lượng chỉ huy quân đội và công an nhiều chưa từng thấy. Trong số 200 ủy viên TƯ thì có đến 20 tướng lĩnh và cán bộ chỉ huy quân đội và 5 tướng lĩnh công an, gồm 1 bộ trưởng, 4 thứ trưởng. Ở một số tỉnh thành, nhiều tướng lĩnh công an đã được đưa lên nắm chính quyền, như ở thủ đô, thiếu tướng công an Nguyễn Đức Chung làm chủ tịch UBND Hà Nội. Như vậy, tập đoàn thống trị có ý đồ sẽ mạnh tay đàn áp, khủng bố để cứu vãn chế độ đã lung lay tận gốc. Đó là ý muốn của kẻ thống trị, nhưng có thực hiện được ý đồ đó hay không lại là một chuyện khác. Mọi người đều biết VN còn bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ khác, như TPP với Hoa Kỳ và các đối tác khác, FTA với Liên minh Châu Âu, WTO, ILO, v.v... Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, khi xu hướng chung trên toàn cầu là tự do, dân chủ thì thế giới văn minh không để yên cho những chính quyền độc tài độc ác muốn làm gì cũng được. 

SÁCH LƯỢC ĐỐI VỚI CUỘC BẦU CỬ QUỐC HỘI

Trước mắt chúng ta, đang có một vấn đề đòi hỏi những người dân chủ sớm xác định cho mình một thái độ rõ rệt. Đó là cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa thứ 14 (nhiệm kỳ 2016-2021) vào ngày 22 tháng 5 sắp tới. 

Theo thiển ý của chúng tôi, cũng như đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa thứ 13 lần trước, chúng tôi cho rằng sách lược của những người dân chủ vẫn là tẩy chay trò hề dân chủ giả hiệu của tập đoàn thống trị, tẩy chay trò ma quái phản dân chủ «đảng cử dân bầu», tẩy chay lối bầu cử gian lận của ĐCSVN.

Tẩy chay trò hề bầu cử của ĐCSVN là công khai không công nhận tính chính danh (légitimité) của chế độ độc tài toàn trị CS, vì trên thực tế từ trước đến nay CS đã tiếm đoạt quyền làm chủ của người dân bằng cách không cho người dân được tự do bầu cử và tự do ứng cử. Tẩy chay trò hề bầu cử, nếu vận động tốt thành phong trào, là một cách nâng cao dân trí tích cực nhất, vì nó rèn luyện cho người dân biết bất tuân dân sự trước những chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền không hợp lòng dân. Muốn có hiệu quả tốt, những người dân chủ phải chịu khó đi sâu vào dân chúng giải thích cho họ hiểu rõ quyền bầu cử, ứng cử tự do của công dân mà ĐCS đã chà đạp lên quyền đó và họ cần có thái độ dứt khoát. Cần nói rõ, hiện nay chưa có luật nào bắt buộc người dân phải đi bầu để người dân không sợ khi họ tẩy chay bầu cử. Họ có nhiều cách để tẩy chay bầu cử đại biểu Quốc hội: hoặc âm thầm không đến hòm phiếu, hoặc vắng nhà hôm bầu cử mà không cần không nói lý do với ai, hoặc bạo dạn hơn nói rõ vì sao mình không đi bỏ phiếu. Nếu bị các tổ trưởng dân phố, công an khu vực thúc ép, giục giã đi bầu có thể cãi lý với họ, chẳng hạn, người dân oan hay người nhà các tù nhân lương tâm có thể nói thẳng là bao giờ chính quyền giải quyết nỗi oan của chúng tôi hay nỗi oan của thân nhân chúng tôi đang ngồi tù thì chúng tôi đi bầu... Nếu thấy không cần cãi lý thì cứ đi nhưng kiên quyết không bầu các quan chức CS, không bầu những ứng cử viên trong danh sách ĐCS đưa ra (thường do các tổ trưởng dân phố rỉ tai). Hoặc cũng có thể bỏ phiếu trắng hay gạch xóa tất cả các tên trong phiếu bầu, nhưng cách này không hay bằng cách không bầu vừa nói. Tất cả các hình thức tẩy chay bầu cử đều có thể áp dụng, tùy hoàn cảnh, ý muốn và sáng kiến của từng người. Anh chị em đã từng là tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị thì còn sợ gì mà không dám công khai nói rõ thái độ tẩy chay của mình để cổ vũ những người khác theo gương mình. Khẩu hiệu tẩy chay cuộc bầu cử giả hiệu có thể lôi cuốn rất nhiều người tham gia. Xin các bạn nghĩ xem, cứ tạm ước tính số người mà các chiến sĩ dân chủ có khả năng vận động được trong số dân oan, công nhân đấu tranh, tín đồ các tôn giáo bị đàn áp, bị cướp đất nhà thờ, chùa chiền, thánh thất, các dân tộc bị chèn ép, đàn áp, như người Thượng, người H’Mông, các gia đình tù nhân lương tâm, các thanh niên, trí thức tiên tiến, v.v... thì thấy con số đó sẽ không nhỏ. Cố nhiên, dù phong trào tẩy chay có rộng bao nhiêu đi nữa, cuối cùng ĐCS vẫn «bầu» (!) được một quốc hội bù nhìn theo ý họ, vì chế độ bầu cử của ĐCS là gian lận, ban bầu cử, các người kiểm phiếu, công an canh gác… đều là người của họ, họ muốn làm gì cũng được, muốn cho tỷ lệ đi bầu bao nhiêu phần trăm cũng được. Căn cứ vào số người tẩy chay cuộc bầu cử nhiều hay ít người dân chủ đánh giá được ý thức dân chủ và thái độ bất tuân dân sự của quần chúng. Chúng ta cần phải tập dần cho người dân quen có thái độ này, vì vào những thời điểm quan trọng của lịch sử nó sẽ rất cần thiết.

Lần này, có một sự kiện mới là TS Nguyễn Quang A đã đề xướng phong trào tự ứng cử của những trí thức dân chủ đối lập. TS Quang A biết rõ những thủ đoạn gian manh của giới cầm quyền để loại bỏ những người tự ứng cử bằng những cuộc “hội nghị” của địa phương, những cuộc “hiệp thương” với Mặt trận Tổ quốc thường là những màn kịch để vu khống, bôi nhọ, làm nhục, đấu tố những người tự ứng cử và cuối cùng không công nhận họ là ứng cử viên. Ông biết rõ như vậy, nhưng ông cho rằng những trí thức dân chủ đối lập khi ra tự ứng cử sẽ là dịp để nâng cao dân trí, cụ thể là gây ý thức dân chủ cho quần chúng, làm cho họ hiểu được quyền công dân của họ là được ứng cử, bầu cử tự do, làm cho họ nhận thức được sự bất công và phản dân chủ của lối «đảng cử dân bầu» hiện nay. Những người tự ứng cử biết chắc là sẽ không trúng cử và họ sẽ chịu nhiều điều khó chịu, nhiều nỗi ê chề do đảng cầm quyền đạo diễn, nhưng họ không hề sợ và sẵn sàng chịu đựng tất cả những điều đó vì sự nghiệp nâng cao dân trí. Theo chúng tôi, đó là một điều đáng phục. Hiện nay đã có khoảng mười người tuyên bố sẽ tự ra ứng cử. Ngoài TS Nguyễn Quang A, còn có nhà văn Phạm Thành, ông Nguyễn Tường Thụy, kỹ sư Hoàng Chương, bà Nguyễn Thúy Hạnh, bà Đặng Bích Phượng, LS Lê Văn Luân, LS Võ An Đôn, doanh nhân Nguyễn Kim Môn... 

Theo thiển ý của chúng tôi, những người can đảm tự ứng cử dưới cái chế độ tuyển cử cực kỳ phản dân chủ của tập đoàn thống trị CSVN muốn đạt được ít nhiều hiệu quả mà họ mong muốn thì phải mạnh dạn «xé rào» để thực hiện những việc sau đây:

1/ không chờ đợi được công nhận là ứng cử viên, ngay khi tuyên bố tự ứng cử, phải lập được một nhóm vận động bầu cử cho mình để phổ biến tin tức về người tự ứng cử, mục đích, chương trình của người tự ứng cử và làm mọi việc để ủng hộ người đó. «Nhóm vận động bầu cử» sẽ là một hình thức tự phát vận động dân chủ;

2/ trước hoặc ngay sau khi nộp đơn tự ứng cử cần công bố rộng rãi tiểu sử, mục đích và chương trình ứng cử của mình trên các phương tiện thông tin, như báo mạng, facebook… hoặc in thành tờ rơi để tán phát nếu điều kiện cho phép. Về chương trình hành động thì nên nêu những vấn đề mà người dân rất quan tâm, dính dáng đến quyền lợi thiết thân của họ, những vấn đề mà kẻ cầm quyền thường tránh né;

3/ cố gắng vận động các đảng viên CS đã «tỉnh thức» có vai trò quan trọng trước đây trong đảng và chính quyền giới thiệu, ủng hộ người tự ứng cử trên phương tiện thông tin, báo mạng hay trong các buổi nói chuyện thân mật với dân chúng;

4/ vận động một vài người cảm tình có tiếng tăm, có uy tín trong dân chúng sẵn sàng phát biểu bênh vực cho người tự ứng cử trong các cuộc họp dân chúng, các cuộc «hiệp thương» với Mặt trận Tổ quốc để phản bác những kẻ nói xấu, vu khống, bôi nhọ người tự ứng cử; 

5/ các nhà báo trung thực, các facebooker, các báo mạng lề trái nên có những tường thuật khách quan và sinh động các cuộc họp dân chúng, các cuộc «hiệp thương» của Mặt trận Tổ quốc với những người tự ứng cử để đông đảo quần chúng được biết.

Có làm được như vậy, mới hy vọng phong trào tự ứng cử có tác dụng giáo dục, nâng cao dân trí cho đại chúng. Nhưng, cũng nên thấy trước phong trào tự ứng cử có mặt tiêu cực của nó, trước tiên là tập đoàn thống trị CS sẽ có cớ để rêu rao trước dư luận thế giới là: «Chế độ của chúng tôi thật sự dân chủ và tự do như thế đấy, có cả một phong trào tự ứng cử.» Nếu có người hỏi: «Thế có ai trúng cử không?»Tập đoàn thống trị sẽ trả lời ngay: «Họ không được nhân dân ủng hộ thì trúng cử làm sao được?» Thế là trước mắt dư luận quốc tế «lẽ phải» lại thuộc về kẻ cướp quyền của công dân 

Nhưng, theo thiển ý chúng tôi, cách ứng xử như thế nào đối với cuộc bầu cử Quốc hội sắp tới là tùy sự cân nhắc của mỗi người dân chủ. Những người yêu nước tự ứng cử cũng nhằm giúp người dân hiểu rõ quyền tự do, dân chủ để có ý thức chống lại độc đoán và chuyên chế, chống đối chế độ độc tài toàn trị CS. Vì thế không nên và không thể coi việc làm của họ là chấp nhận chế độ toàn trị CSVN, chấp nhận hiến pháp phản dân chủ hiện hành với điều 4. Xin nói rõ, dù chúng tôi cho rằng sách lược tẩy chay trò hề bầu cử Quốc hội sắp tới là hợp lý nhất, nhưng chúng tôi vẫn chủ trương những người dân chủ cần ủng hộ hành động can trường của những người tự ứng cử. Không nên vì quan điểm khác nhau trên vấn đề này mà gây chia rẽ trong phong trào dân chủ. Vì tẩy chay cuộc bầu cử hay tự ứng cử đều cùng mục đích nâng cao dân trí, và thực chất của hai quan điểm đều nhằm chống chế độ độc tài toàn trị CS. Xin mọi người hãy suy ngẫm xem!

o0o

Dân tộc ta đang đứng trước một thời điểm rất quan trọng, đòi hỏi một sự cố gắng lớn lao của mọi người tha thiết yêu nước thương dân, lo lắng cho vận mệnh của Đất nước và Dân tộc, của mọi người yêu tự do, dân chủ mong muốn Nước nhà sớm thoát khỏi chế độ độc tài toàn trị của CSVN để vươn lên thành một Đất nước độc lập, văn minh, tự do, dân chủ, giàu mạnh, thịnh vượng. Để đáp ứng đòi hỏi của tình thế mới, mỗi chiến sĩ dân chủ cần đi sâu vào quần chúng, kiên trì giải thích cho quần chúng nhận thức rõ tình hình Đất nước, động viên quần chúng tham gia những cuộc đấu tranh chung. Chúng ta rất mừng là qua phong trào đấu tranh ngày càng mạnh của dân oan, của công nhân, lao động, của tín hữu các tôn giáo bị chèn ép, của giới trẻ… đã nảy sinh nhiều chiến sĩ dân chủ rất kiên cường, dày dạn và có năng lực. Đó là lực lượng xung kích năng động nhất của phong trào. Điều quan trọng hiện nay là đoàn kết và tập hợp những lực lượng đó trong những tổ chức tương đối chặt chẽ để kịp ứng phó với tình hình khi thời cơ đến. 

Ngày 1.3.2016